Tranh chơi đáo ngày xưa. Ảnh Internet.
Ở bài viết trước, anh bạn trẻ Huy Trường từ "Vui ra Phết", "Hay ra Phết" lần mò ra "Vui đáo để", "Hay đáo để", "Khôn đáo để"... và nêu thắc mắc "Phải chăng nó cũng bắt nguồn từ trò chơi đánh đáo?". Câu hỏi hay đây, chứng tỏ anh bạn trẻ này khi còn nhỏ cũng rất "quậy", rất rành những trò chơi trẻ con ngày xưa.
Nhưng trước khi đi vào chi tiết tìm hiểu xem "đáo để" có phải là từ trò chơi "đánh đáo" không? Tôi cũng xin giới thiệu qua trò chơi dân gian "đánh đáo". Học giả Toan Ánh cũng đã sưu tầm trò chơi này trong những dịp hội xuân ngày xưa ở miền Bắc.
Nếu trong lễ hội đánh phết, đấu vật, thi thổi cơm... là những "trò chơi" dành cho người lớn, thì đánh đáo thật sự là trò chơi thường ngày của trẻ con. Thời tôi còn là chú nhóc tì thì đám trẻ con (con trai) trong xóm quanh đi quẩn lại có những trò chơi như trốn tìm, đánh khăng, đánh cù (chơi con quay mà đám nhóc tì miền Nam gọi là "bông vụ"), đánh đáo, chơi u, cướp cờ, tạt lon... Trong những trò chơi này có trò chơi "đánh đáo" hoặc còn gọi là "chọi đáo", là có tí chút ăn thua mấy đồng "keng" lẻ...
Nhưng xem ra trong những kễ hội ngày xưa "đánh đáo" không phải là trò chơi chính thống của Ban tổ chức buổi lễ (như đánh phết, đấu vật...), mà chỉ là những trò chơi phụ, tạo thêm niềm vui trong lễ hội mà thôi. Học giả Toan Ánh trong Hội hè đình đám Việt Nam, đã nêu mấy cách chơi đáo trong lễ hội xưa như sau:
1. Đáo đĩa:
Đây là một trò đổ bác có ăn thua, trước đây thường gặp trong những hội hè thuộc vùng Bắc Ninh, Bắc Giang.
Chơi đáo đĩa rất giản dị, người cái bày ra một chiếc nia hay một chiếc mẹt tre, ở giữa có một cái đĩa thanh trúc đường kính khoảng mười hai đến mười lăm phân tây (loại đĩa sứ có vẽ cây trúc xanh trong lòng). Chiếc đĩa này dùng làm đích cho người chơi đáo. Những người chơi đáo được gọi là người con , đứng cách xa chiếc mẹt một khoảng cách cố định. Người con sẽ cả cái (là ném những đồng tiền xu vào trong cái đĩa thanh trúc), đồng tiền xu nào mà nằm lại được trong chiếc đĩa thanh trúc người con sẽ thắng, được người cái chung cho một số tiền gấp nhiều lần trị giá đồng tiền xu mà mình đã ném. Cũng có khi được trả bằng hiện vật, như gói trà tàu, vuông lụa hay nhiễu điều... Trường hợp đồng xu ném trúng nhưng văng ra khỏi chiếc đĩa rơi ra ngoài hay rơi trong mẹt, người con đều chịu mất đồng tiền ấy, nếu đồng tiền rơi ra ngoài khi chưa vào đĩa hay mẹt người con được quyền ném lại.
Thường trong những cuộc chơi này người cái có vài tay gọi là cò mồi ném rất điệu nghệ, thắng nhiều hơn thua, khiến người chơi tưởng dễ ăn nên cố chơi, đến khi thua "cháy túi" rồi mới biết bị lừa...
2. Đáo ô:
Đáo ô cũng tương tự như đáo đĩa, có người cái và người con, nhưng thay vì chiếc đĩa để trong mẹt, thì thay đĩa và mẹt bằng một chiếc khay gỗ vuông chung quanh có gờ, bên trong khay được kẻ thành những ô nhỏ, những ô này có ô có giải thưởng nhiều ít (có thể bằng tiền, có thể bằng hiện vật), cũng có những ô không. Người con cũng đứng ở một khoảng cách cố định, cả cái những đồng tiền xu của mình vào chiếc khay gỗ. Nếu đồng tiền xu rơi vào ô có giải thưởng, theo đó sẽ được trả thưởng, những đồng tiền nào vào những ô không có giải thưởng thì bị mất vào tay người cái. Trường hợp đồng tiền văng ra ngoài khay gỗ sẽ được hoàn để người con chơi lại.
3. Đáo lỗ:
Đáo lỗ là một trò chơi dân gian của đám trẻ con thường ngày, nhưng trong những hội hè ngày xưa cũng được đưa vào lễ hội với mục đích vui chơi. Chơi đáo lỗ không có cái với con, chỉ có vài đứa trẻ, hoặc đám thanh niên tụ họp nhau lại dưới gốc cây đa mát mẻ. Mỗi người chơi góp vào vài đồng tiền xu bằng nhau, chơi từng ván. Một cái lỗ nhò được khoét dưới đất, cách một khoảng cố định là vạch để người chơi đứng ở đó. Người chơi lần lượt thay phiên nhau ném xấp đồng xu vào cái lỗ, nếu đồng xu nào nằm lại trong cái lỗ thì người ném được quyền lấy những đồng xu đó, cho đến đồng xu cuối là hết ván, lại đậu tiền chơi ván khác.
Những trò Đáo đĩa, đáo ô là trò đổ bác thường ngày bị cấm, chỉ những khi hội hè mới được cho chơi ở lễ hội với tích cách vui chơi, còn chơi Đáo lỗ thì chỉ có đám trẻ con thỉnh thoảng có được vài đồng xu thì chơi với nhau, đây cũng là trò chơi ăn thua bằng tiền, nên cũng không phổ biến bằng những trò chơi khác như đánh khăng, đánh cù, chơi u, cướp cờ ở trẻ nhỏ khi xưa...
4. Đáo cọc:
Trong khi các loại đáo khác chơi bằng tiền xu, có tính chất sát phạt, không phải là trò chơi chính ở hội hè, thì đáo cọc ngày xưa có khác biệt, là trò chơi chính của Ban tổ chức lễ hội. Tại làng Lũng Ngoại, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên (Vĩnh Phú) hằng năm mở hội từ mồng ba tới mồng bảy tháng Giêng, ngoài các trò chơi như đánh vật, tổ tôm điếm... còn có trò chơi đáo cọc.
Đáo cọc còn được gọi là ú đáo, được tổ chức trước sân đình, trên khoảng đất có chiều dài độ mười thước. Ở một đầu có cắm một chiếc cọc, trên đó phất phới lá cờ đuôi nheo ngũ sắc, người tham dự đứng ở đầu kia. Vào sáng mồng ba khai hội ông Tiên chỉ cũng trịnh trọng khai mạc môn đáo cọc, và chính ông sẽ ném viên đá đầu tiên, rồi đến những vị bô lão, chức sắc trong làng, sau nữa mới đến người dân đi lễ hội. Đáo ở đây là những viên đá tròn, người chơi phải ném những viên đá sao cho càng tới gần chân cọc càng tốt. Những người chơi đáo có thể dùng viên đá của mình ném đánh bật viên đá gần chân cọc của người khác. Sau một thời gian quy định viên đá của ai gần sát chân cọc nhất người ấy sẽ thắng cuộc, người thắng cuộc tin rằng năm ấy mình sẽ rất may mắn. Trò chơi này hơi giống như chơi Bi sắt (Boule, Pétanque) ngày nay, có tính chất vui vẻ, không sát phạt ăn thua như đáo đĩa, đáo ô, hay đáo lỗ.
Từ Đáo, Đánh Đáo trong Từ điển Việt-Bồ-La (1651- bản in lại) của Alexandre de Rhodes và bản dịch của nhóm Thanh Lãng.
Theo Từ điển Việt-Bồ-La của Giáo sĩ Alexandre de Rhodes, ta thấy trò chơi "đánh đáo" là "Chơi tiền thảy lỗ" (đáo lỗ), là một trò chơi dân gian đã có ít ra là cả gần 500 năm nay.
Trở lại chuyện anh bạn trẻ Huy Trường thắc mắc có phải từ "đáo để" là từ trò chới đánh đáo mà ra hay không? Ta thấy khi xưa có đáo đĩa, đáo ô, đáo lỗ, đáo cọc, nhưng không thấy có loại đáo nào là "đáo để". Người ta hay dùng từ "đáo để" khi nói:
a- "Trò chơi này vui đáo để" (Trò chơi này rất vui), nói theo bây giờ là "Vui tới bến", "Món ăn này ngon đáo để" (Món ăn này rất ngon), "Quyển sách này hay đáo để" (Quyển sách này rất hay)... Trong trường hợp này "đáo để" có nghĩa là "rất".
b- "Cô ta đáo để quá", "Đây là một anh chàng đáo để", "Con bé đó trông thế mà đáo để lắm"... Trong trường hợp này "đáo để" lại có nghĩa không tốt, như đanh đá, dữ tợn...
Tôi thử tra trong từ điển:
Từ điển Hán-Việt (Đào Duy Anh - 1957), ghi nhận:
- Đáo để 到底: đến cùng (à la fin).
Tôi vẫn thích từ điển của cụ Đào Duy Anh, ở chỗ từ điển tiếng Hán đôi khi cụ ghi chú thêm tiếng Pháp, ngược lại từ điển tiếng Pháp cụ ghi chú thêm tiếng Hán.
Từ điển từ Hán-Việt (Lại Cao Nguyên - 2007):
- Đáo để 到底: 1. (đến tận đáy) Rất mực, hết mực. 2. Đanh đá, riết róng.
Việt Nam tự điển (Lê Văn Đức, Lê Ngọc Trụ - 1970):
- Đáo để: Trạng từ, Đến đáy, đến cùng. Tính từ, ghê gớm, ráo riết.
Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên - 1997):
- Đáo để: 1. tính từ, Quá quắt trong đối xử, không chịu ở thế kém đối với bất cứ ai. 2. khẩu ngữ, Quá chừng, hết sức.
Theo tôi, từ Hán-Việt "đáo để" ban đầu ý nghĩa như từ điển Hán-Việt của Đào Duy Anh, nghĩa là đến cùng, hoặc đến tận đáy (Đáo 到: đến, để 底: đáy) , những nghĩa khác như đanh đá, riết róng, ghê gớm... có lẽ là những nghĩa phái sinh về sau.
Như vậy ta thấy "Đáo để" là từ Hán-Việt, có những ý nghĩa như trên, không phải có nguồn gốc từ trò chơi Đánh đáo khi xưa. Hy vọng anh bạn trẻ Huy Trường tạm hài lòng với bài viết.
Tham khảo:
- Những sách đã dẫn.
Tôi vẫn thích từ điển của cụ Đào Duy Anh, ở chỗ từ điển tiếng Hán đôi khi cụ ghi chú thêm tiếng Pháp, ngược lại từ điển tiếng Pháp cụ ghi chú thêm tiếng Hán.
Từ điển từ Hán-Việt (Lại Cao Nguyên - 2007):
- Đáo để 到底: 1. (đến tận đáy) Rất mực, hết mực. 2. Đanh đá, riết róng.
Việt Nam tự điển (Lê Văn Đức, Lê Ngọc Trụ - 1970):
- Đáo để: Trạng từ, Đến đáy, đến cùng. Tính từ, ghê gớm, ráo riết.
Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên - 1997):
- Đáo để: 1. tính từ, Quá quắt trong đối xử, không chịu ở thế kém đối với bất cứ ai. 2. khẩu ngữ, Quá chừng, hết sức.
Theo tôi, từ Hán-Việt "đáo để" ban đầu ý nghĩa như từ điển Hán-Việt của Đào Duy Anh, nghĩa là đến cùng, hoặc đến tận đáy (Đáo 到: đến, để 底: đáy) , những nghĩa khác như đanh đá, riết róng, ghê gớm... có lẽ là những nghĩa phái sinh về sau.
Như vậy ta thấy "Đáo để" là từ Hán-Việt, có những ý nghĩa như trên, không phải có nguồn gốc từ trò chơi Đánh đáo khi xưa. Hy vọng anh bạn trẻ Huy Trường tạm hài lòng với bài viết.
Tham khảo:
- Những sách đã dẫn.