Ở bài viết trước tôi có nói về chữ "phố", phố tưởng chỉ có nghĩa là con phố, tức là con đường, thường có cửa hàng, cửa hiệu buôn bán ở nơi thị tứ. Không dè phố còn có nghĩa là căn nhà ở, hay cửa hàng buôn bán. Bạn dungNobita (tôi thường gọi cụ Nô) vào cho biết thêm phố còn để chỉ bến thuyền, kèm theo câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan "Gác mái ngư ông về viễn phố", như vậy chữ phố được hiểu với ba nghĩa khác nhau con đường, nhà ở, bến thuyền.
Hôm nay tình cờ tra trong Từ điển chữ Nôm (trên mạng), thì thấy có thêm một từ phố nữa để chỉ khu vườn. Vậy là trong chữ Nôm chữ phố được hiểu ít nhất với bốn nghĩa khác nhau. Tôi chép lại dưới đây những chữ phố ấy:
Phố (pu) |
Vườn: Thái phố (vườn rau); Miêu phố (vườn ương)
|
Phố (pu) |
- Cửa sông; bờ sông |
|
|
Phố (pù) |
- Tấm phản để nằm - Tiệm buôn: Phố diện (mặt trước cửa tiệm) - Xem Phô (pu) |
|
Phố * (Hv phố) |
- Đường có hai dẫy nhà hai bên: Dạo phố; Hà nội băm sáu phố phường - Thợ cùng nghề thích ở cùng một đường, tạo nên Phường: Phố hàng Bông |
Trong những chữ
phố ghi trên, tôi chú ý đến ba chữ, thứ nhất
phố là cửa sông; bờ sông (bến sông, bến thuyền). Thứ nhì
phố là tiệm buôn (nhà ở), chữ thứ ba phố
là con đường. Nếu theo tiếng Hán, thì chữ
phố thứ nhất là cửa sông; bờ sông (bến sông, bến thuyền), thuộc bộ Thủy (nước). Chữ thứ nhì
phố là tiệm buôn (nhà ở) thuộc bộ Kim (kim loại). Chữ thứ ba phố
là con đường thuộc bộ Thiệt (cái lưỡi). Ba chữ này đọc theo tiếng Việt quốc ngữ đều là
phố, nhưng chữ Hán, cũng như chữ Nôm đều viết khác nhau.
Khi viết chữ phố có nghĩa là bến thuyền, ông bạn dungNobita có ghi chú thêm câu thơ "Gác mái ngư ông về viễn phố" trong bài Cảnh chiều hôm của Bà Huyện Thanh Quan*. Như ta đã biết thơ của Bà Huyện Thanh Quan đa số làm bằng chữ Nôm, như những bài Thăng Long thành hoài cổ, Qua đèo Ngang, Cảnh chiều hôm... Về từ viễn phố trong bài thơ Cảnh chiều hôm, tôi thấy trong sách vở, và những bài viết trên mạng đều giải nghĩa là bến thuyền, bến sông xa. Học giả An Chi, một người tôi rất thích đọc, tôi đã đọc từ khi ông còn phụ trách trang Chuyện Đông chuyện Tây viết dưới bút danh Huệ Thiên trên tạp chí Kiến thức Ngày nay, trên kệ sách cũng có mấy tập sách này của ông. Trong mục giải đáp thắc mắc trên trang mạng Bách Khoa Trí Thức, một độc giả hỏi: Gác mái ngư ông về viễn phố (thơ Bà Huyện Thanh Quan). Xin cho biết gác mái lúc nào? Học giả An Chi, đã trả lời dưới đây (chép lại nguyên văn):
"Cứ theo quan hệ cú pháp thấy được trong câu thơ đó thì việc gác mái tất nhiên chỉ có thể xảy ra trước hoặc đồng thời với việc về viễn phố chứ không thể sau. Xin so sánh với câu tiếp theo của bài thơ:
Gõ sừng mục tử lại cô thôn.
Quan hệ cú pháp trong câu này đồng nhất với quan hệ cú pháp của câu trước trong một thế đối chặt chẽ và ở đây rõ ràng là việc gõ sừng xảy ra trong tiến trình của việc lại cô thôn. Nhưng nếu hiểu việc gác mái xảy ra trong tiến trình của việc về viễn phố thì sẽ phản thực tế. Việc về viễn phố cũng như việc lại cô thôn, là một quá trình chưa hoàn thành, với cấu trúc ngữ pháp đã thấy trong hai câu thơ hữu quan thì trẻ chăn trâu gõ sừng trên đường về xóm vắng mà chưa về đến còn lão đánh cá gác mái trên đường về bến xa mà cũng chưa về đến nơi. Nhưng nếu chưa về đến bến xa mà đã vội gác mái thì tất nhiên là sẽ lênh đênh ở ngoài khơi hoặc trên dòng sông chứ làm sao tấp vào bờ mà về. vậy trong thực tế, chẳng làm gì có chuyện "gác mái ngư ông về viễn phố". Nhưng Bà Huyện Thanh Quan đã viết như thế thì biết làm thế nào? Đành phải làm phép kết luận rằng tuy bà viết như thế nhưng chắc là bà cũng muốn chúng ta hiểu rằng thực ra ngư ông về đến bến xa rồi thì mới gác mái chèo bên mạn thuyền mà đi về (hoặc vào) nhà. Chỉ có hiểu như thế thì mới hợp luận lý vì chẳng có lẽ Bà Huyện lại chơi khăm ông lão đánh cá mà bắt ông ta cứ lênh đênh mãi ở ngoài sông ngoài biển".
(Hết chép).
Trong cách lý giải trên, học giả An Chi giải thích "gác mái ngư ông về viễn phố", tức là lão đánh cá gác mái (hiểu là không chèo nữa) trước khi về đến bến xa, và "gõ sừng mục tử lại cô thôn", có nghĩa là trẻ chăn trâu gõ sừng trên đường về xóm vắng. Đây là cú pháp đồng nhất trong một thế đối chặt chẽ. Nhưng việc trẻ chăn trâu gõ sừng trên đường về xóm vắng là một việc bình thường, hợp lý luận, thì chuyện lão đánh cá gác mái (không chèo nữa) trên đường về (trong tiến trình) về bến xa là không hợp luận lý, như vậy lão đánh cá cứ mãi phải lênh đênh ngoài sông ngoài biển. Ông đã kết luận "Đành phải làm phép kết luận rằng tuy bà viết như thế nhưng chắc là bà cũng muốn chúng ta hiểu rằng thực ra ngư ông về đến bến xa rồi thì mới gác mái chèo bên mạn thuyền mà đi về (hoặc vào) nhà". Như vậy xem ra câu "gác mái ngư ông về viễn phố" (ngư ông gác mái không chèo nữa khi đang trên đường về bến xa) Bà Huyện Thanh Quan đã viết khá ngược đời.
Để không có cái cảm giác "lênh đênh mãi ở ngoài sông ngoài biển". Ta có thể hiểu câu "gác mái ngư ông về viễn phố" như thế này được chăng? Câu chữ Hán chữ Nôm không có dấu chấm, phẩy. Nếu ngắt câu theo cách viết trong tiếng Việt hiện đại "gác mái, ngư ông về viễn phố", ta có thể hiểu "gác mái chèo, khi ông lão đánh cá về đến bến xa", cũng như nói "cất xe, khi tôi về đến nhà", thay vì "Tôi về đến nhà và cất xe". Tuy câu trước nghe có "gượng" hơn câu sau.
Nếu Truyện Kiều của Nguyễn Du ta còn tìm thấy nhiều dị bản viết bằng chữ Nôm tuy không phải là bản gốc của tác giả, và cũng đã nổ ra nhiều cuộc tranh luận về dị bản, hoặc viết cùng một chữ Nôm mà mỗi nơi đọc khác nhau, dẫn đến nghĩa khác. Trong khi thơ của Bà Huyện Thanh Quan từ trước đến nay trên sách vở, hoặc trên các trang mạng tôi chưa từng được thấy bài nào bằng chữ Nôm của Bà. Chỉ thấy đa số sách vở đều hiểu
viễn phố (
) có nghĩa là bến xa,
phố ở đây là bến thuyền, bến sông. Không rõ "thực sự" Bà Huyện Thanh Quan viết chữ
phố (chữ Nôm) trong
viễn phố là chữ
phố nào (như trong ít nhất ba chữ
phố là bến thuyền (bến sông), tiệm buôn (nhà ở), hay con đường, như Từ điển chữ Nôm hiện đại ghi trên), hoặc ở vào thời của Bà thì chữ Nôm có bao nhiêu chữ
phố? với những nghĩa là gì?
Ta có thể thay chữ
phố với nghĩa là bến
(bến thuyền, bến sông), bằng chữ
phố với nghĩa là nhà ở được không? Như vậy câu "gác mái ngư ông về viễn phố" sẽ được hiểu: gác mái chèo khi về đến bến sông, ngư ông về nhà nơi xa (nhà xa hơn bến sông). Nếu dùng chữ
phố là nhà ở xem chừng lại hợp hơn với câu tiếp theo "gõ sừng mục tử lại cô thôn", gõ sừng mục tử về lại thôn vắng, "nhà xa" và "thôn vắng", là cùng để chỉ nơi ở của ngư ông và mục tử, thay chữ
phố bằng nhà ở cho
phố bến sông, ta không bị "cảm giác" như học giả An Chi đã viết: "chẳng có lẽ Bà Huyện lại chơi khăm ông lão đánh cá mà bắt ông ta cứ lênh đênh mãi ở ngoài sông ngoài biển".
Và với hai cách hiểu tôi thử đưa ra bên trên, xem ra lại có vẻ hợp luôn với cả bài
Cảnh chiều hôm của Bà Huyện Thanh Quan, tả tâm trạng của một lữ khách đang bước đi trên đường chiều, nhìn thấy cảnh ông lão đánh cá gác mái chèo khi (đã) về đến bến xa (để trở về nhà), hoặc gác mái chèo (khi đã về đến bến) để trở về nhà xa hơn bến, và mục đồng gõ sừng trâu về lại xóm vắng, chứ ông lão đánh cá còn lênh đênh đâu tận ngoài sông ngoài biển, chưa về đến bến thì làm sao lữ khách đi trên đường bộ nhìn thấy được?
Ghi chú:
* Bà Huyện Thanh Quan, tên thật là Nguyễn Thị Hinh, người làng Nghi Tàm, huyện Vĩnh Thuận, nay thuộc Hà Nội, về năm sinh, năm mất của Bà thông tin ghi không thống nhất, trên trang Wikipedia ghi năm sinh, năm mất của Bà là 1805-1948, và chồng Bà tên Lưu Nghi. Nhưng đa số các từ điển Văn học, Tác gia, Nhân vật lịch sử VN... chỉ ghi Bà sống ở đầu thế kỷ XIX, không rõ năm sinh, năm mất, chồng Bà tên là Lưu Nguyên Ôn, từng làm Tri huyện Thanh Quan, nên người đời mới gọi Bà là Bà Huyện Thanh Quan. Bà học rộng, từng được vua Minh Mệnh triệu vào cung làm Cung trung giáo tập, dạy học cho các cung phi và công chúa. Bà sáng tác không nhiều, hiện còn lại gần mười bài thơ, hầu hết bằng chữ Nôm theo thể Đường Luật. bài
Cảnh chiều hôm dưới đây là một trong những sáng tác ấy:
Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa lẫn trống dồn
Gác mái ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cô thôn
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
Kẻ chốn Chương Đài (1)
người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?
(1)
Chương Đài: tên một con đường ở Tràng An (kinh đô Trung Quốc đời Đường). Hán Hoành Hủ đời Đường đi làm quan xa lấy một người kỹ nữ họ Liễu để ở đó. Nghĩa bóng để tả nỗi xa cách.
Trong bài
Qua đèo ngang, hai câu "Lom khom dưới núi tiều vài chú/ Lác đác bên sông
chợ (hay
rợ) mấy nhà", có sách viết là
chợ, cũng có sách viết là
rợ. Dĩ nhiên trong tiếng Việt hiện đại thì
chợ và
rợ sẽ hiểu khác nhau, cho nên cũng nổ ra tranh luận chữ
chợ đúng hay chữ
rợ đúng, ai cũng có lý lẽ, theo "cảm quan" của mình, nhưng hình như ít người quan tâm thơ của Bà được làm bằng chữ Nôm, vậy khi viết Bà đã dùng chữ Nôm nào,
chợ hay
rợ? Cái quan trọng là chính Bà Huyện Thanh Quan đã viết chữ Nôm là chữ gì? bởi chữ Nôm
chợ và
rợ sẽ viết khác nhau. Ta cũng đã biết chữ Nôm có thể viết cùng một mặt chữ, nhưng lại đọc âm khác nhau, và hiểu nghĩa khác nhau. Chẳng hạn ngay trong từ
chợ và
rợ dưới
đây:
-
Chợ (Hv trợ; trợ thị) |
- Nơi họp để mua bán trong thời gian không lâu: Phiên chợ - Mấy cụm từ: Chợ chiều (* chợ họp buổi chiều; * vào lúc chợ sắp tan) Chợ trời (* chợ lộ thiên; * chợ bán tạp vật thường là đồ cũ); Chợ đen (buôn bán trái luật) - Nơi có nhiều nhà: Kẻ Chợ (kinh đô) - Địa danh: Chợ lớn (TH Đê ngạn)
-
Rợ (Hv di; trợ)(khuyển trơ; khuyển lữ) |
Chưa được khai hoá: Man rợ |
|
Xem hai chữ Nôm Chợ và Rợ ghi trên, ta thấy đa số chữ viết khác nhau, chỉ có chữ
ở âm đọc là Chợ (chợ búa) cũng có dùng, và âm đọc là Rợ (mọi rợ) cũng có dùng. Giả thử thời Bà Huyện Thanh Quan chữ Nôm cũng giống như bây giờ viết trên từ điển, Bà có dùng chữ
trong câu "lác đác bên sông (chợ, rợ)
mấy nhà", thì bây giờ ta cũng khó có thể biết "ý" của Bà chữ
phải đọc là
chợ hay
rợ?