Thỉnh thoảng ta hay nghe nói đến 2 từ "Tứ trấn" và "Tứ chiếng". Về từ "Tứ trấn" có hai cách giải thích:
a- Bốn ngôi đền trấn giữ ở bốn hướng của kinh thành Thăng Long:
- Đền Trấn Vũ (Chân Vũ Quán), ở hướng Bắc, thường được gọi dưới tên đền Quán Thánh, nằm ở phía Bắc kinh thành, nay là đường Quán Thánh, thuộc phường Quán Thánh, quận Ba Đình - Hà Nội. Thời Pháp là đường Phật Lớn (Route du Grand Bouddha). Đền thờ Trấn Thiên Chân Vũ Đại Đế, người đã có công giúp An Dương Vương (257-179 TrCN) diệt trừ yêu tà khi xây thành Cổ Loa. Đền có pho tượng đồng Huyền Thiên Trấn Vũ nặng gần 4 tấn, đúc đời Lê Hy Tông (1677).
- Đền Kim Liên, xưa thuộc phường Đông Tác, huyện Thọ Xương, nay thuộc phường Kim Liên, quận Đống Đa - Hà Nội. Đền thờ thành hoang Cao Sơn Đại Vương, tương truyền là một trong trăm con của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Hội đền vào ngày 16 tháng Ba âm lịch.
- Đền Bạch Mã, ở hướng Đông, trên phố Hàng Buồm, Hà Nội, thờ thần Long Đỗ là Thành hoàng của thành Thăng Long. Cũng thờ thần Bạch Mã. Tục truyền xưa Cao Biền đắp thành Đại La, lập miếu để cầu thần phù hộ. Đến khi Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long, cho tu sửa thành Đại La, nhưng việc gặp trở ngại mãi không xong. Vua sai người vào đền cầu đảo, chốc lát thấy một con ngựa trắng từ trong đền đi ra, đến đâu để lại dấu chân đến đấy. Vua sai theo dấu chân ngựa mà đắp, quả nhiên xăy được thành. Vua xuống chiếu cho dân thành Thăng Long thờ làm Thành hoàng, phong là Quảng Lợi Bạch Mã Tối linh Thượng đẳng thần. Các triều sau đều có sắc phong.
- Đền Voi Phục, ở phía Tây kinh thành, hiện ở bên công viên Thủ Lệ, thờ Linh Lang con trai Lý Thái Tông, thần có công đánh giặc giữ nước và nhiều lần hiển linha giúp nhà Trần trong cuộc kháng chiến quân Nguyên-Mông, và nhà Lê trong cuộc trung hưng. Trước cửa đền có đắp hai con voi phục nên đền được gọi thế. Hội đền diễn ra vằo ngày mười một tháng Hai ăm lịch.
b- Bốn Kinh trấn, còn gọi là nội trấn bao quanh kinh thành Thăng Long: có tên gọi từ đời vua Lê Thánh Tông, niên hiệu Hồng Đức 21 (1490), vào cuối thế kỷ XV. Bốn xứ nằm ở ngoại vi kinh thành Thănh Long như lớp vỏ bảo vệ cho kinh thành, gọi là Tứ trấn, các xứ khác ở xa hơn gọi là Phiên trấn. Tứ trấn gồm có:
- Trấn Kinh Bắc, bao gồm các tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang và Phúc Yên sau này, gồm 4 phủ (20 huyện). Trấn Kinh Bắc còn gọi là trấn Bắc hay trấn Khảm.
- Trấn Sơn Nam, tương tương các tỉnh Hà Đông, Hà Nam, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Hưng Yên sau này, gồm 11 phủ (42 huyện). Trấn lị nằm ở phía Nam kinh thành nên được gọi là trấn Nam, hay trấn Ly.
- Trấn Hải Dương, bao gồm các tỉnh Hải Dươnh, Hải Phòng và Kiến An sau này, gồm 4 phủ (18 huyện). Trấn lị nằm ở phía Đông kinh thành nên được gọi là trấn Đông hay trấn Chấn.
- Trấn Sơn Tây, tương đương với các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Yên, Sơn Tây sau này, gồm 6 phủ (24 huyện). Trấn lị nằm ở phía Tây kinh thành nên còn gọi là trấn Tây hay trấn Đoài.
2- Tứ chiếng:
Tứ chiếng nghĩa là bốn phương, bốn phía, tứ xứ, các nơi, ở khắp nơi... như Việt Nam Tự điển (Hội Khai Trí Tiến Đức, Hanoi-1931), Từ điển Tiếng Việt, Văn Tân chủ biên (Hà Nội-1967), Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên-1997), Từ điển Tiếng Việt (Phan Canh-1997). Tự điển Việt Nam Phổ thông (Đào Văn Tập, Saigon-1951), Việt Nam Tân Tự điển (Thanh Nghị, Saigon-1952) còn ghi chú thêm bằng tiếng Pháp "Les quatres côtés, partout" (Bốn phương, bốn hướng, khắp nơi), Tự điển Việt Nam (Lê Văn Đức-Lê Ngọc Trụ, Saigon-1970), Tự điển Việt Nam (Ban Tu thư Khai Trí, Saigon-1971).
Việt Nam Tự điển của Lê Văn Đức-Lê Ngọc Trụ, ngoài giải thích từ "tứ chiếng" là "tứ xứ, bốn phương", còn giải thích từ "tứ chính" cũng với nghĩa "bốn phương hướng chính. Đông, tây, nam, bắc", và trong phần phụ lục giải thích tục ngữ, thành ngữ, có ghi câu "Trai tứ chiếng, gái giang hồ", giải nghĩa như sau: Trai phải đi lính, luôn luôn được đi thú khắp bốn Trấn ở Bắc Hà hồi xưa là Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Dương và Sơn Tây. Gái thì đảm đang việc gia đình, phải đi mua bán khắp nơi, khi thì ngồi thuyền, khi thì trẩy bộ. 1/ Đủ hạng người từ các nơi tựu lại làm ăn đông đúc; 2/ Rất xứng đôi, trai thì lão luyện, gái thì già dặn.
Trong mục Hỏi đáp Đông Tây trên Bách Khoa Tri Thức, học giả An Chi đã giải thích khi có người hỏi "Tứ chiếng" trong "Trai tứ chiếng, gái giang hồ" nghĩa là gì?
Ngoài phần giải thích căn cứ theo Việt Nam Tự điển của Lê Văn Đức-Lê Ngọc Trụ như trên, ông An Chi đã viết như sau:
"Tứ chiếng đã được Nguyễn Bỉnh Khiêm dịch thành bốn chiến như có thể thấy ở câu sau đây trong thơ quốc âm của ông:
Dại nhơn nhơn bốn chiếng hay
(Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb Văn Học, Hà Nội 1993. A. Thơ Nôm, bài 108, trang 145).
Hai tiếng bốn chiếng đã được sách trên chú giải như sau: "Tức là tứ chiếng, bốn trấn quan trọng chung quanh Đông Đô. Trấn Kinh Bắc (trấn Bắc), trấn Sơn Nam (trấn Nam), trấn Sơn Tây (trấn Đoài), trấn Hải Dương (trấn Đông). Đó là bốn chính trấn (tứ chính trấn, gọi tắt là tứ chính. Sau người ta đọc chệch tứ chính thành tứ chiếng).
Thực ra, chẳng phải đợi đến khi có "tứ chính trấn" thì cụm từ này mới được nói tắt thành tứ chính vì hai tiếng này đã tồn tại sẵn từ lâu trong tiếng Hán mà âm Hán Việt xưa là tứ chiếng, biết rằng iêng - inh, như: - (trống) chiêng - chinh; (đau) điếng - đính 酊 (say đến không còn biết gì); kiềng (ba chân) - kình 擎 (giá đèn, chân đèn); thiêng (liêng) - linh (thiêng),v.v... Tứ chiếng - Tứ chính 四正 đã được Từ hải giảng giải như sau: "Tức là bốn phương hướng căn bản. Xem mục cơ bản phương vị. Còn mục cơ bản phương vị thì được giảng giải: "Tức bốn hướng Đông,Tây, Nam, Bắc vậy". Còn gọi là Tứ chính.
Tham khảo:
- Địa chí Tôn giáo Lễ hội Việt Nam, Mai Thanh Hải, NXB Văn hóa - Thông tin-2008.
- Từ điển đường phố Hà Nội, Giang Quân, NXB Thời Đại-2010.
- Các Thành Hoàng & Tín ngưỡng Thăng Long - Hà Nội, Nguyễn Vinh Phúc - Nguyễn Duy Hinh, NXB Lao Động- 2009.
- Thư của các Giáo sĩ Thừa sai, Nguyễn Minh Hoàng dịch, NXB Văn Học-2013.