Thứ Sáu, 28 tháng 11, 2014
Học làm người.
Tôi đang đọc lại những quyển sách trong tủ sách "Học làm người", loại sách này được xuất bản trước năm 1975 ở Saigon. Những quyển sách tôi đang đọc được tái bản sau năm 1975, của những học giả Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Duy Cần, Hoàng Xuân Việt... Đây là ba tác giả quen thuộc của miền Nam viết về những đề tài có tính cách giáo dục, hướng dẫn những kỹ năng sống của thời ấy, những bài viết chủ yếu dành cho sinh viên, học sinh, những người trẻ tuổi trong xã hội. Những quyển sách như Đắc nhân tâm, Quẳng gánh lo đi và vui sống, Sống đẹp, Luyện lý trí, Rèn nghị lực, Kim chỉ nam của học sinh, Tổ chức công việc theo khoa học, Tương lai trong tay ta, Gương danh nhân, Gương chiến đầu, Gương hy sinh... (Nguyễn Hiến Lê), Thuật tư tưởng, Cái dũng của thánh nhân, Lão Tử Đạo Đức kinh... (Nguyễn Duy Cần), Người bản lĩnh, Thuật hùng biện, Thuật đọc sách báo, Thinh lặng cũng là hùng biện, Làm sao đời lên hương... (Hoàng Xuân Việt).
Tôi vẫn thường đọc đi đọc lại những quyển sách trong tủ sách "Học làm người" của ba tác giả quen thuộc đó. Có lẽ với đại đa số người đọc sách ở miền Nam trước đây như tôi, không ai lại không biết đến sách của ba vị, cùng với những học giả khác như Vương Hồng Sển ông viết về thú chơi cổ ngoạn, thú sưu tầm sách, viết về miền Nam... cũng như sách của nhà văn Sơn Nam, sách của các ông luôn được viết rất nghiêm túc, nhưng bình dị, gần gũi, dễ đọc, cho ta rất nhiều kiến thức bổ ích.
Có một điều rất hay là cả ba học giả Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Duy Cần, Hoàng Xuân Việt, tuy sống cùng thời, cùng viết về những đề tài giống nhau, tham khảo, trích dẫn có khi từ cùng một nguồn, nhưng đọc sách của các ông ta thấy luôn khác, khác về cách hành văn, cách suy nghĩ của mỗi người khi viết sách, cách đưa nội dung của quyển sách đến bạn đọc... không bao giờ tôi có thể tìm thấy những lỗi "sao chép" nào dù là nhỏ nhặt giữa những quyển sách của họ, hay có thể nói khác đi, ở nơi họ không hề có cái mà bây giờ ta thường thấy nơi xã hội, được gọi là "đạo văn". Có lẽ những người như những học giả kể trên luôn là những người sống có nhân cách, đúng như những gì họ đã viết trong sách.
Trong tủ sách Học làm người của ba học giả quen thuộc tôi vừa kể trên, có lẽ sách của học giả Nguyễn Hiến Lê được nhiều người đọc nhất, ông cũng là người viết về đề tài này nhiều hơn các học giả khác. Ông viết từ thập niên 1950 cho đến lúc mất (đầu thập niên 1980) với trên 100 quyển sách đã được xuất bản. Cho đến tận bây giờ sách của ông vẫn còn được tái bản và vẫn được nhiều bậc phụ huynh tìm mua cho con cái đọc (nhưng tuổi trẻ bây giờ có còn thích thú đọc loại sách này như những thế hệ trước hay không?). Sách của hai học giả Nguyễn Duy Cần và Hoàng Xuân Việt cũng thế. Tôi nghĩ các thế hệ thanh niên sinh trưởng trước năm 1975 ở miền Nam, không ít người đã "nên người", theo cái nghĩa cơ bản nhất, tức là đã nên người tử tế, biết lẽ phải, trái, cũng là nhờ đã thường xuyên đọc sách của các ông...
Bây giờ ta có thể tìm đọc loại sách Hạt giống tâm hồn của nhà Firt News - Trí Việt, tủ sách viết về những mẫu chuyện nho nhỏ nói về những gương hy sinh, ý chí vươn lên trước nghịch cảnh, những câu chuyện cảm động trong cuộc sống, nhưng với loại sách trong tủ sách Học làm người của các học giả kể trên, sách còn hướng dẫn cho ta cách đọc sách, phương pháp học tập, cách xử thế, cách tư duy, lý luận, kể cả cách nghỉ ngơi, giữ gìn sức khỏe... những điều chúng ta tưởng là đương nhiên, ai cũng biết, ai cũng rành rẽ...
Mới mấy ngày trước, một câu chuyện nhỏ, có lẽ là rất nhỏ tôi đã gặp trước cổng một bệnh viện đã làm cho tôi suy nghĩ. Một anh chàng còn trẻ tuổi, cỡ chừng hai mươi bảy, hai mươi tám tuổi đậu xe gắn máy giữa đường đi chắn lối ra vào trước bệnh viện, anh ta thản nhiên đứng nói điện thoại mặc cho lúc ấy có chiếc tắc xi chở người bệnh đến bấm còi xin tránh sang một bên để đưa người bệnh vào. Khi những người bán hàng rong chạy ra nhắc thì anh ta quay lại sửng cồ với họ, anh ta nói đây là đường đi thì anh ta có quyền đứng như thế. Qua cách ăn mặc bảnh bao, xe cộ, tôi thấy anh ta chắc phải là người được đến trường lớp, đã có công ăn chuyện làm đàng hoàng, chứ không phải như đám ngày xưa ông bà ta hay gọi là "đá cá lăn dưa" nơi mấy ngôi chợ đầu mối. Vậy mà tại sao anh chàng này lại hành xử như thế nơi chốn công cộng? Như một kẻ vô lại? Chỉ biết đến chính bản thân, chứ không cần biết đến việc mình làm ảnh hưởng đến sự an nguy của kẻ khác?
Tôi nghĩ mãi. Hay là anh ta đã được học chữ nhưng lại không được học hay tự học những nguyên tắc cơ bản để làm người?
Chủ Nhật, 23 tháng 11, 2014
Giải thích từ ngữ.
Vừa qua tôi có nhận được Email của một bạn blog (bác HN) gởi cho một bài viết về tên gọi nước Trung Quốc, tình cờ lướt web tôi cũng đọc được một bài trên Người Lao Động Online (22-11-2014) của học giả An Chi về ý nghĩa, nguồn gốc của từ "Tàu" (để chỉ người Trung Hoa), bài báo viết: (xin ghi những ý chính).
Cớ sao gọi người Trung Quốc là “Tàu”!
Thứ Bảy, 22:33 22/11/2014
Một số người nghĩ đơn giản rằng sở dĩ ta gọi người Trung Quốc là “Tàu” bởi vì họ sang ta bằng “tàu”! Từ nguyên học đâu có dễ dàng và ngộ nghĩnh như thế.
....................
"Chúng tôi khẳng định rằng Tàu là âm cổ Hán Việt của từ ghi bằng chữ 曹 mà âm Hán Việt hiện đại là tào, có nghĩa rộng là “cơ quan triều đình”, hiểu rộng ra là “quan”. Trong thời Bắc thuộc, nói chung giới cai trị là người Trung Hoa cho nên dân chúng đã quan niệm rằng người Trung Hoa là “tàu”, nghĩa là “quan”.
Đấy là chữ "Tàu" để chỉ người Trung Hoa theo cách lý giải của học giả An Chi.
Tôi cũng có đọc được quyển "Những bước đầu của Báo chí - Truyện ngắn - Tiểu thuyết và Thơ mới (1865-1932)" của Bùi Đức Tịnh, đúng như tựa, sách nói về giai đoạn đầu của Báo chí- Truyện ngắn - Tiểu thuyết và Thơ mới ở Việt Nam giai đoạn 1865-1932). Tác giả có trích Gia Định Báo*, số 5 năm thứ sáu, 16-2-1870, viết về những từ mà người Việt Nam (ở miền Nam) để gọi người Trung Hoa, tôi chép lại dưới đây:
"Người bên Tàu thường gọi là Trung Quốc nghĩa là nước ở giữa vì thuở xưa bên ấy có 18 nước chư hầu: chỗ Kinh Thành Hoàng đế ở lại ở vô giữa các nước chư hầu nên gọi là Trung Quốc.
Người bên Tàu thường kêu mình là Đường Nhơn hay là Thanh Nhơn, nghĩa là người nhà Đường, nhà Thanh.
An Nam ta kêu là Tàu, người bên Tàu, là vì người khách thường đi Tàu qua đây buôn bán; nên kêu là Tàu, hàng Tàu, đồ Tàu, v.v...
Người Bắc thì kêu là Ngô, nghĩa là người nước Ngô, có kẻ lại cắt nghĩa rằng vì bởi nó hay xưng mình là Ngô nghĩa là tôi.
Kêu Các chú là bởi người Minh Hương mà ra; mẹ An Nam cha Khách, nên nhìn người Tàu là anh em, bằng không thì cũng là người đồng châu với mình, nên mới kêu là Các chú nghĩa là anh em cha mình. Sau lần lần người ta bắt chước mà kêu vậy theo làm vậy.
Còn kêu là Chệc là tại tiếng Triều Châu kêu tâng Chệc nghĩa là chú. Người bên Tàu hay giữ phép, cũng như An Nam ta, thấy người ta tuổi đáng cậu cô chú bác thì kêu là chú là cậu vân vân. Người An Nam ta nghe vậy vịn theo mà kêu các ảnh là Chệc...".
Tôi cũng thử tra trên vài quyển từ điển tiếng Việt xưa:
- Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huình Tịnh Paulus Của (Saigon-1895,1896) giải thích: Tàu: Thuyền lớn, thuyền đi biển, nước Trung Quốc; người An Nam thấy tàu khách qua lại nhiều, lấy đó mà gọi nước Tàu, người Tàu.
- Việt Nam tự điển, Hội Khai Trí Tiến Đức, (Hà Nội-1931) giải thích: Tàu: tên tục người Việt-nam gọi nước Trung-hoa, do người Trung-hoa sang nước Việt-nam thường đi bằng tàu: Người Tàu, Hàng Tàu.
Ngoài những tiếng để chỉ người Trung Hoa như bài báo trên Gia Định báo đã viết bên trên, ngày xưa khi còn nhỏ gia đình tôi ở trong khu vực Chợ Lớn tại Saigon, trong xóm có nhiều gia đình người Hoa, ngay bên kế nhà tôi cũng có một gia đình người Triều Châu (họ sống với chòm xóm rất tốt, chỉ có cái tội là ăn ở không mấy vệ sinh). Thỉnh thoảng tôi cũng thường nghe người Việt gọi họ là Ba Tàu, hoặc Tàu Khậu, cách gọi này nghe có vẻ xách mé chẳng hạn "mấy chú Ba Tàu Chợ Lớn hay khạc nhổ", hoặc "mấy ông Tàu Khậu hay gom hàng làm giá". Chữ "Khậu" theo Đại Nam Quấc Âm Tự Vị là tiếng Triều Châu (còn gọi là tiếng Tiều), có nghĩa là "kho hàng", có lẽ người Hoa giỏi buôn bán, trong vùng Chợ Lớn họ có rất nhiều kho chứa hàng nên gọi họ như vậy, sau này tôi cũng nghe một từ khác gọi họ là "Tàu khựa", chữ "khựa" không biết có phải do chữ "khậu" mà ra? Cũng có cả một câu nói gần như là thành ngữ để chỉ sự ngốc nghếch, khờ khạo: "Chú Tàu nghe kèn" hay "mặt nó cứ nghệt ra như ngố Tàu nghe kèn ấy ".
Ghi chú:
* Gia Định Báo: là tờ báo bằng chữ quốc ngữ đầu tiên của cả nước (xuất bản ở Nam Kỳ), được cho là khởi điểm của nền quốc văn mới, xuất bản số 1 ngày 15 tháng 4 năm 1865, do Ernest Potteaux làm Chánh tổng tài (một chức vụ thời ấy tương tự như Chủ nhiệm kiêm Chủ bút sau này). Ý định của nhà cầm quyền thuộc địa khi xuất bản Gia Định Báo:
- Phổ biến các văn kiện chính thức của chính quyền lúc ấy đến dân chúng Việt Nam.
- Truyền bá thứ chữ viết dùng mẫu tự La Tinh để ghi âm tiếng Việt.
Học giả Trương Vĩnh Ký có thời gian từ 1869 đến 1872 được Thống soái Nam Kỳ G. Ohier cử làm Chánh tổng tài.
(Theo Những bước đầu của Báo chí - Truyện ngắn - Tiểu thuyết và Thơ mới (1865-1932), Bùi Đức Tịnh, NXB TP. HCM-2002).
Thứ Ba, 18 tháng 11, 2014
Về một vài địa danh.
Ảnh Internet.
Trong entry trước, khi tôi thử tìm kiếm thông tin về ý nghĩa của tên gọi động Sơn Đoòng ở Phong Nha, Quảng Bình, anh bạn trẻ Nguyễn Huy Trường đã vào comment hỏi về ý nghĩa của những địa danh ở quê nhà nơi miền Bắc của bạn. Quê của anh bạn trẻ khi xưa là tỉnh Sơn Tây, nay thuộc ngoại thành Hà Nội. Đó là những xã có tên gọi: Canh Nậu, Dị Nậu, Hương Ngải.
Thật tình mà nói đây là lần đầu tiên tôi được nghe những địa danh này, đây không phải là những nơi đã xảy ra những biến cố lịch sử, hoặc là những địa điểm về cổ tích hay thắng cảnh du lịch thường được nhắc tới, nhưng tôi cũng thử tìm tòi, lục trong đám sách vở mình có, xem có những thông tin gì không? Thời may tôi cũng tìm được một số trang sách liên quan đến những địa danh quê nhà nơi anh bạn trẻ hỏi.
Trước hết tôi muốn nói đến nguồn gốc của những địa danh trên:
- Canh Nậu, Dị Nậu, Hương Ngải xưa là ba xã thuộc tổng Hương Ngải, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây. Đến năm 1965 tỉnh Sơn Tây được đổi thành Hà Tây, năm 1975 là Hà Sơn Bình, và từ năm 1979 đến nay thuộc ngoại thành Hà Nội. Xã Canh Nậu gồm 4 thôn, là Canh Nậu 1, 2, 3, 4. Xã Dị Nậu có 2 thôn là Bến thôn và Dị Nậu. Xã Hương Ngải có 4 thôn là Hương Ngải 1, 2, 3, 4. Hai xã Canh Nậu và Dị Nậu ngày xưa có tên Nôm là làng Núc (Kẻ Núc). Xã Hương Ngải có tên Nôm là làng Ngái. Vùng Sơn Tây ngày trước được gọi là "Xứ Đoài" (Đoài là tên một quẻ trong Kinh Dịch chỉ về phương Tây, hướng Tây).
Về nghề nghiệp xưa thì xã Canh Nậu có tiếng về nghề dệt vải (xưa gọi là dệt lượt, dệt the), xã Dị Nậu chuyên sản xuất nâu dùng trong nhuộm vải (củ nâu), củ nâu có hai loại là củ nâu rắn và củ nâu mềm, củ nâu mềm tốt hơn củ nâu rắn. Như vậy ngày xưa hai xã Canh Nậu chuyên dệt vải, Dị Nậu chuyên sản xuất củ nâu nhuộm vải, cùng ở chung trong một tổng, chắc chắn hai làng có liên quan mật thiết với nhau trong ngành nghề.
Về nghề dệt vải, sách vở cũng có chép ông Tổ của nghề này là Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan (1528-1613), quê của ông ở làng Phùng Xá huyện Thạch Thất, (phía nam làng Dị Nậu, quê của anh bạn trẻ Huy Trường giáp với làng Phùng Xá, tức là làng Phùng Xá là láng giềng của làng Dị Nậu). Sách vở chép là trong một lần đi sứ Trung Hoa, Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan đã học được nghề dệt vải, đem về nước dạy cho dân (gọi là "lượt Bùng"). Ông cũng được dân thờ làm Thành Hoàng. Cũng có giai thoại ông có dấu được 3 hạt ngô (bắp) vào chỗ kín mang về nước (người nước ngoài học nghề và mang sản vật ra khỏi nước là điều ngày xưa người Trung Hoa cấm kỵ). Ngoài chuyện là ông Tổ của nghề dệt vải, Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan cũng được cho là ông Tổ của nghề trồng ngô, khi ông mang mấy hạt ngô về gieo trồng thành công và sau dạy cho dân trồng (ngày xưa hạt ngô mang về được gọi là "lúa ngô", lúa của người Ngô). Trong một entry trước nói về tại sao lại gọi là "Xôi lúa" chứ không phải "Xôi ngô", bạn trẻ Huy Trường có vào nói ở quê bạn người ta vẫn gọi ngô là lúa. Như vậy chắc chính xác, vì quê của bạn là làng Dị Nậu giáp với quê của Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan ngày xưa là làng Phùng Xá).
Còn làng Hương Ngải ngày trước có một một nghề truyền thống khác là làm gạch ngói chứ không làm nghề liên quan đến dệt, nhuộm vải như hai làng Canh Nậu và Dị Nậu.
Về danh nhân thì ngoài Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, sách vở còn chép ở huyện Thạch Thất có núi Không Lộ. Trên núi ngày xưa có chùa Lạc Lâm là nơi Thiền sư Không Lộ thoát xác. Sách vở cũng có chép giai thoại sư Không Lộ là người giỏi phép thuật, y lý. Một lần ông lưu lạc tận Trung Hoa chữa bệnh cho Thái Tử nước này. Vua Tàu ban cho ông nhiều vàng bạc nhưng ông từ chối, chỉ xin đầy một cái túi 3 gang ông mang theo một kim loại khác là đồng. Vua Tàu đồng ý, ông lấy đồng trong mười cái kho cho vào túi vẫn không đầy. Số đồng quá nặng không ghe thuyền nào chở nổi. Ông lấy cái nón đang đội lật ngửa thả xuống biển, cái nón biến thành chiếc thuyền và ông ung dung ôm chiếc túi đồng xuống thuyền vượt biển trở về nước.
Về nước sư Không Lộ mang số đồng này đúc chuông. Tương truyền ông đã góp phần tạo nên "Tứ đại khí" của nước ta là tượng khổng lồ ở chùa Quỳnh Lâm, huyện Đông Triều (Quảng Ninh) cáo 20 mét. Tháp Báo Thiên dựng ở chùa Sùng Khánh (Thăng Long), gồm 12 tầng cao 70 mét. Chuông Quy Điền ở chùa Thiên Hựu (chùa Một Cột) cao đến 3 sải, đường kính mấy người ôm không xuể. Do quá to nên chuông đánh không kêu người ta khiêng bỏ ngoài ruộng gần chùa, rùa bò vào là ổ nên được gọi là ruộng rùa (Quy Điền). Sau cùng là vạc chùa Phổ Minh (Nam Hà), vạc sâu 4 thước, rộng 10 thước, nặng 6.150 cân (thước ta, cân ta). Tứ đại khí về sau bị giặc Minh phá hủy. Sư Không Lộ cũng được vinh danh là ông Tổ của nghề đúc đồng.
- Còn về ý nghĩa của tên gọi những làng Canh Nậu, Dị Nậu, Hương Ngải như bạn trẻ Huy Trường đã hỏi thì thật hóc búa. Đây là tên chữ theo âm Hán-Việt của 3 làng. Như đã viết bên trên, ngày xưa 2 làng Canh Nậu và Dị Nậu tên Nôm xưa gọi là làng Núc, Kẻ Núc, còn làng Hương Ngải tên Nôm xưa là làng Ngái. Nếu không biết được tên viết theo chữ Hán của Canh Nậu, Dị Nậu, Hương Ngải thì ta cũng khó có thể viết đúng theo chữ Hán được, bởi mỗi âm Hán Việt có nhiều cách viết bằng chữ Hán, và ý nghĩa của mỗi chữ cũng khác nhau. Còn tên Nôm xưa của làng Núc thì chữ Núc cũng khó biết rõ nghĩa là gì. Tôi thử tra mấy quyển từ điển chữ Nôm hoặc tiếng Việt, thì thấy chữ Núc có mấy nghĩa thông thường là "hòn đồ rau để bắc nồi; vặn chặt, ép chặt; béo". Chữ Núc cũng còn đọc là "nác", là âm xưa của "nước". Tên Nôm xưa của làng Hương Ngải là làng Ngái cũng khó xác định ý nghĩa. Ngái được dùng trong "ngái ngủ" (trạng thái chưa tỉnh khỏi cơn buồn ngủ), hoặc ngái có nghĩa là "xa" trong "xa ngái".
May ra về ý nghĩa của những làng Canh Nậu, Dị Nậu, Hương Ngải ở quê của bạn trẻ Huy Trường, về tên chữ cũng như tên Nôm thì chỉ những bậc trưởng lão ở quê của bạn, hoặc những nhà chuyên nghiên cứu về địa danh mới có thể giải thích ngọn ngành được, còn tôi thì... chịu.
Hy vọng là anh bạn trẻ Huy Trường sẽ hài lòng về những thông tin khác nơi quê nhà của bạn!
Tham khảo:
- Đại Nam nhất thống chí, Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổng tài Cao Xuân Dục, Toản tu Lưu Đức Xứng, Trần Xán, bản dịch Hoàng Văn Lâu, (NXB Lao Động - Trung Tâm Văn Hóa Ngôn Ngữ Đông Tây-2012).
- Các vị Tổ Ngành nghề Việt Nam, Lê Minh Quốc, (NXB Trẻ-1999).
- Từ điển Địa danh-Làng xã ngoại thành Thăng Long-Hà Nội, Bùi Thiết, (NXB Thanh Niên-2010).
- Tự điển chữ Nôm, Nguyễn Quang Xỹ-Vũ Văn Kính, (Bộ Giáo Dục-Trung Tâm Học Liệu - Saigon 1971).
- Bảng tra Chữ Nôm, Viện Ngôn ngữ học, (NXB Khoa học Xã hội - Hà Nội 1976).
- Đại Tự điển Chữ Nôm, Vũ Văn Kính, (NXB Văn Nghệ TP. Hồ Chí Minh-Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học-2010).
- Việt Nam Tự điển, Hội Khai Trí Tiến Đức, (Mặc Lâm - Saigon 1967).
- Từ điển Văn Học, Từ nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX, Lại Nguyên Ân, (NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội-2005).
Chủ Nhật, 16 tháng 11, 2014
Tên gọi của động Sơn Đoòng (Quảng Bình).
Động Sơn Đoòng. Ảnh Internet.
Mấy hôm nay đọc trên mạng thấy nói về chuyện làm cáp treo đến động Sơn Đoòng ở Quảng Bình, đây là một hang động tuyệt đẹp, mới được tìm thấy vài năm nay. Anh bạn trẻ Bố susu cũng bỏ công sưu tầm những hình ảnh tuyệt vời của động Sơn Đoòng giới thiệu bên nhà mình, tôi qua xem thấy quả xứng đáng là "Đệ nhất thiên hạ động". Chuyện cáp treo có vẻ "vĩ mô" và gay cấn, người nói nên làm người nói không nên, bên nào cũng đưa ra những lý lẽ chắc như cua gạch, chẳng hiểu thế nào? Nhưng đọc tới đọc lui thì cái mà tôi muốn tìm hiểu trước nhất, là vị trí của hang, đặc điểm hang, ai tìm ra hang động này, và vì hay chú ý đến chữ nghĩa nên tôi đặc biệt muốn biết ai đã đặt tên cho nó là Sơn Đoòng,và tên Sơn Đoòng có ý nghĩa là gì?
Tra Google trang Wikipedia thì thấy giới thiệu đại khái (những ý chính) như sau:
Hang Sơn Đoòng (trang này gọi là hang) tọa lạc tại xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, là hang động tự nhiên lớn nhất thế giới (cái này thì dân Việt mình sướng mê tơi, lớn nhất thế giới cơ mà), hang nằm trong quần thể hang động Phong Nha-Kẻ Bàng, là một phần của hang động ngầm nối với 150 hang động khác ở khu vực gần với biên giới Lào-Việt. Báo New York Times xếp hạng Sơn Đoòng vào vị trí thứ 8 trong 52 địa danh trong danh sách những nơi nên đến năm 2014.
Hang có chiều rộng 150 mét, cao hơn 200 mét, dài ít nhất 5 km, được hình thành khoảng 2-5 triệu năm trước. Hang được khám phá bởi một người địa phương tên là Hồ Khanh vào năm 1991, khi ông tình cờ lánh vào để tránh một mưa rừng. Bẵng đi đến năm 2006, tức là đến tận 15 năm sau khi đoàn thám hiểm của Hiệp hội Hang động Hoàng Gia Anh (British Caving Association) thuộc Vương Quốc Liên Hiệp Anh, đến khu vực này thăm dò thì ông Hồ Khanh mới báo cho họ. Phải khó khăn lắm ông Hồ Khanh mới hướng dẫn đoàn thám hiểm tìm được cửa hang. Họ dành cho ông Hồ Khanh vinh dự đặt tên cho hang.
Ngày 22-4-2009, phái đoàn Hiệp hội Hang động Hoàng Gia Anh do Howard Limbirt dẫn đầu, đã công bố việc phát hiện hang và cho rằng quy mô của hang Sơn Đoòng là lớn nhất thế giới.
Như vậy theo trang Wikipedia thì hang Sơn Đoòng được phát hiện chính thức vào năm 2006, và tên là do ông Hồ Khanh một người dân địa phương đặt, nhưng không thấy nói đến ý nghĩa của tên Sơn Đoòng.
Tôi đọc được trong một trang mạng khác (LAO ĐỘNG Online ngày 05/04/2011), một thông tin khác như sau: (Tôi mạn phép copy nguyên trang báo, vì không thể tóm tắt ý):
Ít người biết, suýt chút nữa hang Sơn Đoòng ở xứ Đoòng, thuộc vùng lõi VQG Phong Nha - Kẻ Bàng của tỉnh Quảng Bình - được cho là hang động lớn nhất thế giới thời điểm đó, tìm thấy vào tháng 4.2009 - được đặt tên là hang Hồ Khanh (tên một người dân địa phương).
Hồ
Khanh là người đầu tiên phát hiện ra hang này từ năm 1991 và xung quanh
người đàn ông này, còn nhiều chuyện rất thú vị chưa được kể...
Được tìm thấy từ... 20 năm trước
Gặp
Hồ Khanh tại nhà của ông ở xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch, Quảng Bình,
thật khó mà tìm được mối liên hệ nào giữa người đàn ông 43 tuổi có gương
mặt hiền hiền này với “chiến tích” là người đầu tiên tìm ra hang Sơn
Đoòng. Cho đến khi chuyện loanh quanh một lúc, ông mới cười hơi ngượng
thú nhận “những năm 1990, tui là một... lâm tặc nói theo ngôn ngữ hiện
nay”. Ông nói: “Thật ra, gọi là lâm tặc thì hơi quá, vì thời gian đó,
Phong Nha - Kẻ Bàng chưa được coi là vườn quốc gia, chưa có ai quản lý,
người dân không những cả xã mà cả huyện ni đều sống dựa vô đó với đủ thứ
nghề, mà phổ biến nhất là đi tìm trầm”.
Và
trong một chuyến tìm trầm vào năm 1991, ông Hồ Khanh tình cờ phát hiện
thấy một cái hang, mà mới đây được đặt tên là Sơn Đoòng, được cả thế
giới biết đến. “Lúc đó cũng không ấn tượng chi lắm do Sơn Đoòng cũng
bình thường như bao nhiêu hang khác mà tui nhìn thấy trên đường đi. Chỉ
có một sự khác biệt khiến tui nhớ mãi là khi bước tới cửa hang thì cảm
thấy rõ luôn có một luồng gió mát lạnh trong hang thổi tốc ra, tiếng gió
rít qua vách đá nghe lạnh người...” - ông nhớ lại.
Mấy
năm sau, Hồ Khanh bỏ nghề trầm, trở về làm ruộng và làm thuê mướn quanh
vùng nên ký ức về cái hang “gió rít lạnh người” cũng lùi dần, nhường
chỗ cho những toan lo cơm áo gạo tiền trong cuộc sống hằng ngày. Mãi đến
năm 2006, khi vợ chồng Howard Limbert (nhóm thám hiểm hang động Hoàng
gia Anh) sau nhiều chuyến tìm kiếm hang động ở khu vực Phong Nha - Kẻ
Bàng nhưng không được kết quả gì, đã tìm đến ông Hồ Khanh từ lời mách
của người dân địa phương
“Sau
khi nghe tui kể sơ lược về đặc điểm của hang, đặc biệt là chuyện gió
thổi thốc ở trong ra, mắt ông Limbert sáng lên. Lúc đó, ông khẳng định
chắc như đinh đóng cột rằng đây là một cái rất lớn và ngay lập tức
thuyết phục tui dẫn đi tìm”. Và Hồ Khanh đã nhận lời. Tuy nhiên, suốt 2
năm ròng rã với những chuyến đi liên tục từ 8 - 10 ngày, Hồ Khanh và
nhóm thám hiểm đã tìm thấy được rất nhiều hang động đẹp, nhưng không tài
nào tìm thấy được cái hang có một luồng gió mát lạnh thổi tốc ra như
trong ký ức của mình.
Cuối
năm 2007, vợ chồng Howard Limbert về nước và giao cho Hồ Khanh một
nhiệm vụ là... ở nhà phải tiếp tục tìm kiếm cái hang ấy(!). Nhưng phải
đầu năm 2008, Hồ Khanh mới thu xếp được thời gian và đã tự bỏ tiền nhà
sắm sửa lương thực, nước uống để lên đường. Để rồi sau hơn 2 ngày vượt
núi lần mò, đến ngày thứ ba, miệng hang đã hiện ra trước mắt Hồ Khanh
sau 17 năm “lẩn trốn” và bên trong là một thế giới của những điều kỳ
diệu mà cho đến bây giờ, ông vẫn chưa thôi bàng hoàng... Sau đó, Hồ
Khanh dẫn đoàn thám hiểm của Howard Limbert đến và hang này được đặt tên
là Sơn Đoòng, cũng như được khẳng định là lớn nhất thế giới thời điểm
đó, với chiều dài được khảo sát 6,5km, chiều cao 200m, rộng 150m...
“Chút
nữa nó được đặt tên là Hồ Khanh rồi đó” - đang chuyện, bỗng nhiên Hồ
Khanh cười tủm tỉm. “Là sau khi tìm lại được hang này, theo thông lệ
quốc tế, đoàn thám hiểm đã đề nghị tui đặt tên cho nó và tui đã đặt
là Hồ Khanh. Tên nớ cũng đã được đoàn ghi nhận, nhưng sau đoàn lại xin
phép tui đặt lại tên hang là Sơn Đoòng. Chắc họ căn cứ vào địa danh:
Hang Sơn Đoòng nằm ở vùng Hạ Đoòng, thuộc xứ Đoòng. Gần khu vực này, có
một bản người dân tộc tên là bản Đoòng, còn Sơn có nghĩa là núi”.
Điều thú vị nữa là ngoài hang Sơn Đoòng, ông Khanh còn phát hiện ra hàng
chục hang khác thuộc vùng lõi VQG Phong Nha - Kẻ Bàng và đều được đoàn
thám hiểm dành cho ông quyền đặt tên cho chúng. Và ông đã đặt tên cho
hầu hết các hang theo tên của vợ (hang Nghĩa), con (hang Thái Hoà), bạn
bè (hang Hùng) và cả... tên quán càphê của vợ chồng ông (Hồ Trên Núi)
Như các bạn đã thấy trang của báo Lao Động Online bên trên viết có khác và chi tiết hơn trang Wikipedia, chẳng hạn đoàn thám hiểm Hiệp hội Hang động Hoàng Gia Anh đi tìm lần đầu vào năm 2006 đã thất bại, và họ đã tìm đến ông Hồ Khanh. Suốt thời gian hai năm sau đó (cho đến cuối năm 2007) ông Hồ Khanh đã cùng đoàn thám hiểm đi tìm được nhiều hang động khác, nhưng cũng không thể tìm ra hang Sơn Đoòng. Đoàn thám hiểm về nước trao lại cho ông Hồ Khanh nhiệm vụ tưởng như "bất khả thi", và đến đầu năm 2008 thì một mình ông Hồ Khanh đã tìm lại được hang Sơn Đoòng. Sau đó thì ông đã dẫn đoàn thám hiểm của Howard Limbert đến hang, và hang được đặt tên là Sơn Đoòng. Tuy nhiên tên Sơn Đoòng không phải do ông Hồ Khanh đặt, thoạt đầu khi được giao đặt tên, ông đã lấy tên... Hồ Khanh của mình đặt cho hang, nhưng theo bài báo thì đoàn thám hiểm xin phép ông đặt lại tên cho hang là Sơn Đoòng, bởi hang Sơn Đoòng nằm ở vùng Hạ Đoòng, thuộc xứ Đoòng. Gần khu vực này có một bản người dân tộc tên là bản Đoòng.
Như vậy tên Sơn Đoòng theo bài báo là do đoàn thám hiểm của Hiệp hội Hang động Hoàng Gia Anh đặt với sự đồng ý của ông Hồ Khanh sau khi ông dẫn đoàn tìm lại được hang. Bài báo cũng cho biết theo ông Hồ Khanh, chữ Sơn có nghĩa là "núi" (tiếng Hán-Việt), nhưng chữ Đoòng lại không giải nghĩa là gì?
Tôi có mấy quyển từ điển như Mường-Việt, Việt-H'Mông, Việt-Tày-Nùng, nhưng khi tra cũng không tìm thấy ý nghĩa của chữ Đoòng. Lại tìm trên mạng, quả thật chữ nghĩa như bóng chim tăm cá. May thay trên một bài của báo Tiền Phong Online ngày 30-6-2014 khi viết về hang Sơn Đoòng có giải thích: Tên gọi Sơn Đoòng nghĩa là "cái hang có núi và sông". Sơn là từ Hán-Việt có nghĩa là "núi", như vậy từ Đoòng (tên gọi của người dân tộc thiểu số vùng có hang động) có nghĩa là "sông". Điều này có lẽ đúng và hợp lý. Như chúng ta đã biết, về địa danh ở Việt Nam, nhất là nơi những vùng của người dân tộc thiều số sinh sống, thì từ ngữ để chỉ hồ, nước, sông, suối, được thấy rất nhiều, như Đa, Đà, Đạ nơi dân tộc Kơ Ho, Dak, Dăk, Đăk, Đắc nơi dân tộc Bana, Mơ Nông, Xơ Tiêng, Êa nơi dân tộc Ê Đê, Gia Lai... Krông để chỉ sông...
Về tên gọi của những địa danh chúng ta thấy thường có bốn dạng:
- Bằng tiếng thuần Việt, như Kẻ Chợ, Kẻ Sặt...
- Bằng tiếng Hán-Việt, như Hà Nội, Thăng Long, Hòa Bình...
- Bằng tiếng của dân tộc thiểu số, như Đà Lạt, Pleiku, Kontum...
- Có nguồn gốc từ tiếng ngoại quốc, như La Kai (quận 5-Saigon), Cầu Băng Ky (quận Bình Thạnh)...
Như vậy địa danh động Sơn Đoòng có tên gọi khá đặc biệt, mang hai thành tố: Sơn là từ Hán-Việt có nghĩa là núi, và Đoòng là tiếng của người thiểu số địa phương có nghĩa là sông.
Thứ Sáu, 14 tháng 11, 2014
Con đường sách và... sách.
Một phố sách ở Hàn Quốc. Ảnh trong bài của báo Tuổi Trẻ Online.
Báo Tuổi Trẻ Thứ năm (13-11-2014) có bài viết có tựa là "Con đường sách nào cho Sài Gòn?" của tác giả Lê Văn Nghĩa, nội dung bài viết đại ý hiện nay ở Hà Nội có "Đường sách" ở phố Đinh Lễ, nơi bán rất nhiều sách cũ mới giảm giá, một nơi rất quen thuộc với dân đọc sách Hà Nội. Bài viết nói hầu như ở tất cả mọi thành phố lớn trên thế giới, đâu đâu cũng có những con đường sách như thế, và lúc nào những nơi này cũng đông người. Bài báo cũng nhắc đến những con đường sách ở Sài Gòn năm xưa, trước và sau năm 1975.
Tôi chưa từng ra Hà Nội nên không biết phố sách Đinh Lễ thế nào? Cũng không có dịp đi nước ngoài nên không rõ phố sách của họ ra sao, nhưng lớn lên ở Saigon trước năm 1975 từ thuở nhỏ, nên phố sách vỉa hè ngay trung tâm thành phố, nơi đường Lê Lợi, Pasteur... thì rất rành. Tôi đã từng dạo ở đây để mua sách đến mòn dép, đi dạo có khi chỉ để ngó chơi và mua sách ở nơi này cũng hay gặp bạn bè, người quen. Thuở ấy với người mê đọc sách mà trong túi không được rủng rỉnh (hiếm có người mê đọc sách nào mà trong túi rủng rỉnh tiền bạc), thì chẳng tội tình gì mà vào những nhà sách lớn như Khai Trí để mua sách (ngoại trừ một số ít sách chuyên ngành chỉ bày bán trong những nhà sách lớn). Phố sách vỉa hè là sự "lựa chọn hoàn hảo", ở đó bày bán gần như đủ mọi loại sách phổ thông cả cũ lẫn mới, với giá giảm khoảng 30% theo giá bìa (vào nhà sách phải mua đúng giá bìa), lúc đó hình như cũng chưa có nạn sách in lậu, sách luộc, hay xào xáo tầm bậy tràn lan như bây giờ...
Ấy là phố sách vỉa hè có từ trước năm 1975 ở Saigon. Sau năm 1975 thì thời thế có khác, phố sách Lê Lợi, Pasteur tồn tại một thời gian sau nữa rồi bị dẹp, và vì nhiều lý do mà sách in trước năm 1975 ở Saigon được người dân đổ ra vỉa hè bán với giá rẻ mạt (lúc ấy cái ăn là chính, cho dù ăn bo bo, khoai mì, bột mì, gạo cho dù có trộn... sạn cũng là thứ hiếm, sách vở là thứ không làm cho no bụng, và sách in ở miền Nam trước năm 1975 lúc ấy được cho là "Văn hóa phẩm đồi trụy"), phố sách được chuyển sang đoạn đường Bùi Quang Chiêu (nay là đường Đặng Thị Nhu), nối giữa đường Ký Con và Calmette ở gần chợ Bến Thành, dài khoảng 100m. Thuở ấy tôi có một người bạn quen thân từ trong lính (cùng một đơn vị, gia đình ở Saigon và cùng khoái đọc sách), sau năm 1975 bạn về ra vỉa hè đó ngồi bán sách sống qua ngày, nên thỉnh thoảng tôi cũng hay ra ngồi chơi mua một vài quyển.
Tôi thường gặp những nhà văn, học giả, nhà thơ của Saigon cũ như nhà văn Sơn Nam, học giả Vương Hồng Sển, nhà thơ "điên" Bùi Giáng... hay đi "rảo rảo" chọn mua sách, cũng có một vài nhà văn, nhà thơ cũ ở Saigon lúc ấy thất nghiệp nên cũng bày sách ra bán. Trong một vài quyển sách nói về Saigon cũ như Sài Gòn năm xưa, Sài Gòn Tạp pí lù... học giả Vương Hồng Sển có nhắc đến phố sách Bùi Quang Chiêu này dưới tên "Đường Cá Hấp", bởi tên cũ của đoạn đường ngắn này người dân hay gọi là "Hẻm Cá Hấp"*, trước khi là đường Bùi Quang Chiêu** thì đây chỉ là một con hẻm, và được gọi như thế, chắc có nguồn gốc liên quan gì đến con cá hấp? Nhân nói chuyện con cá hấp có lẽ các bạn lớn tuổi ở miền Nam còn nhớ con cá (hình như là cá nục) hấp chín được bán trong mấy chiếc giỏ tre ngoài chợ (giờ ít thấy hơn trước). Hẻm Cá Hấp nằm gần chợ Cầu Ông Lãnh, Cầu Muối, là chợ đầu mối xưa, người dân ở hẻm này chuyên làm nghề hấp cá cung cấp cho chợ chăng? Hay nơi đây là một "vựa" cá hấp cung cấp đi các nơi?
Ít lâu sau phố sách cũ đường Bùi Quang Chiêu cũng bị dẹp, Saigon mất đi một nét văn hóa độc đáo quen thuộc. Sau này theo nhu cầu, có những tiệm sách tư nhân nhỏ bán sách cũ mọc lên (bán trong nhà, khác với phố sách Lê Lợi xưa và phố sách Bùi Quang Chiêu là bày bán lộ thiên ngoài vỉa hè), ở những khu vực như đường Trần Nhân Tôn, Trần Huy Liệu, Nguyễn Thị Minh Khai, Điện Biên Phủ, Gò Vấp... Cũng có một số tiệm bán xen lẫn sách cũ, và sách mới giảm giá, có cả những sách in lậu... Đến bây giờ những nơi này cứ "teo tóp" dần, không phải là do dân ghiền đọc sách ít đi, mà có lẽ do "nguồn hàng" là những sách hay nay đã cạn? Hoặc những địa điểm này ở những vị trí không tốt, không phải là phố để đi bộ, nhân tiện nhìn ngắm phố xá, nhiều người thích đọc sách ở lâu tại Saigon còn không biết.
Tôi vẫn thường ghé những nơi này mua được nhiều quyển sách mình thích với giá khá rẻ. Những tiệm bán sách cũ này giá cả thường tùy chủ tiệm, có những chủ tiệm rất rành về sách vở, khi mua sách cũ họ nhìn sách biết ngay sách nào quý hiếm, bán được giá, và khi bán cho những người biết giá trị của sách là họ hét với giá "cắt cổ", thật sự "cắt cổ". Như ở comment của entry trước anh bạn trẻ Huy Trường nói có lần vào tiệm sách cũ hỏi một quyển của học giả Vương Hồng Sển xuất bản trước năm 1975, chủ tiệm hét đến mấy triệu, giật mình thấy đắt quá, thế mà ít hôm sau anh bạn trẻ ghé lại quyển sách ấy đã bán. Tôi cũng thế, một lần đã lâu tôi thấy quyển từ điển Chăm-Việt-Pháp in năm 1970 ở Saigon nơi một tiệm bán sách cũ, hỏi bà chủ tiệm nói " chắc giá một triệu đồng", hôm ấy không có tiền trong túi, mấy hôm sau lĩnh lương quay trở lại sách đã bán, khá tiếc, bởi đây là quyển sách không dễ gì gặp lại. Một quyển sách trông cũ kỹ, giấy đã ngả vàng vì đã in ấn năm, bảy chục năm nay, với người không cần chỉ là mớ giấy bỏ đi, nhưng với người cần thì có giá trị thế.
Lần khác tôi ghé một tiệm bán sách cũ quen trên đường Trần Huy Liệu, tình cờ lục lọi trong đám từ điển cũ nằm xếp xó đóng bụi ở một góc, thấy có mấy quyển từ điển Việt-H'Mong, Việt-Tày-Nùng, Từ điển Thành ngữ, Tục ngữ Dân tộc Tày, xuất bản vào thập niên 1990, 2000, sách còn mới nhưng bây giờ không thể tìm thấy nơi các nhà sách, lần này may mắn hỏi và mua được với giá khá rẻ chỉ hai, ba chục ngàn một quyển (theo đúng giá bìa lúc sách phát hành), mình mừng vì đã mua được những sách cần (trong việc tra cứu chữ nghĩa), còn chủ tiệm hình như cũng mừng vì "tống" đi được đám "của nợ" để mãi không ai hỏi tới.
Trong quyển "Chữ nghĩa tiếng Huế" của GS. BS. Bùi Minh Đức (NXB Thuận Hóa-2008), môt người gốc Huế hiện sống ở Huê Kỳ. Ông có viết về thú sưu tầm từ điển, và cách thức sưu tầm từ điển, đọc thấy ông sưu tầm được những quyển từ điển rất cổ thấy ham (ông nói nhiều khi có duyên, đã gặp được thì "mấy cũng mua"). Điều này cũng giống như học giả Vương Hồng Sển viết trong thú chơi cổ ngoạn hay thú sưu tầm sách. Một quyển sách xưa có giá trị, trong nước có giá một vài triệu có vẻ là nhiều, nhưng với người sống ở nước ngoài chỉ khoảng mấy chục, một trăm đô, cái giá rất rẻ với họ, cho nên sách xưa trong nước cũng như cổ vật cứ "đội nón ra đi" là điều dễ hiểu. Tôi không sưu tầm những sách cổ có giá trị như GS. BS. Bùi Minh Đức, chỉ thường tìm mua những sách "tầm tầm" mà mình thấy hay, cần đọc hoặc tra cứu.
Thỉnh thoảng ở Saigon có những "Hội sách", nơi những nhà xuất bản trưng bày và bán sách, tôi thấy có rất đông độc giả, trẻ già lớn bé, mà đa số là những bạn trẻ, thường độc giả rất "mặn mà" với những quày sách bán giảm giá (càng giảm giá "sâu" càng tốt, như "kinh nghiệm bổn thân", người mê sách thường ít tiền). Tôi đã mua được ở những Hội sách ấy loại sách đồng giá, chỉ 5.000đ, 10.000đ, 15.000đ một quyển rất hay, nhưng những Hội sách ấy không được tổ chức thường xuyên. Mấy năm gần đây ở đường hoa (Tết) Nguyễn Huệ người ta có sáng kiến "ké" vào một Con đường sách ở một đoạn đường nhánh kế đó, nhưng chỉ thấy người đi chơi ghé ngang qua thưa thớt, bởi đây chỉ là "cánh tay nối dài" của tiệm sách "quốc doanh". Sách bày bán ở đó "y chang" như trong một tiệm sách nhà nước, giá cả cũng thế, không có gì mới.
Và như bài báo viết bên trên, một "Con đường sách" ở trung tâm thành phố Saigon, là nơi bày bán những quyển sách cũ mới, dành cho khách bộ hành bốn phương thích đọc sách, được quản lý tốt là rất cần thiết, một "kênh" để sách luôn được tiếp cận với độc giả. Theo tôi có lẽ còn hơn những con phố ăn uống nơi những phố đi bộ, khá mất vệ sinh bây giờ...
Ghi chú:
* Theo quyển "Đường phố nội thành Thành phố Hồ Chí Minh" (Chi Cục Bản đồ & Khảo sát Xây dựng và Nhà Xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh-1994) của tác giả Nguyễn Đình Tư, thì lịch sử của "Hẻm Cá Hấp" như sau, xưa đây là một con hẻm, được người dân gọi là "Hẻm Cá Hấp", sau năm 1945 được chính quyền Bảo Đại mở rộng thành đường đặt tên là đường Bùi Quang Chiêu. Đến ngày 4-4-1985 UBND TP. HCM đổi thành đường Đặng Thị Nhu. Tiểu sử bà là vợ thứ ba của Hoàng Hoa Thám (Đề Thám), giúp chồng đánh Pháp ở Yên Thế, lập được nhiều chiến công. Cuối năm 1909 bà bị Pháp bắt cùng con gái và bị đày đi Guyane (Nam Mỹ). Trên đường đi khi tàu vượt đại dương thì bà nhảy xuống biển tuẫn tiết. Một gương liệt nữ của Việt Nam.
** Bùi Quang Chiêu (1873-1945): Ông quê ở huyện Mỏ Cày - Bến Tre. Học và đỗ kỹ sư canh nông ở Pháp, về nước làm việc ở Sở Canh nông và Tằm tơ Châu Đốc, sau đổi ra Huế rồi trở về đảo Phú Quốc. Thời gian sau ông tham gia chính trường làm Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ, Hội đồng Kinh tế lý tài Đông Dương.
Năm 1923 thành lập đảng Lập Hiến Đông Dương, là đảng của tầng lớp điền chủ,tư sản Nam Kỳ. Sang Pháp vận động cho chủ trương Pháp-Việt đề huề. Đảng Lập Hiến trở thành công cụ của chánh quyền thực dân. Năm 1936 tuyên bố thôi hoạt động chính trị.
Năm 1945 khi Nhật đảo chính Pháp (9-3) ông lánh về Mỏ Cày một thời gian, nhưng ít lâu sau lại lên Saigon hợp tác với Pháp. Ngày 29-9-1945 bị chính quyền cách mạng xử tử tại Chợ Đệm (Saigon).
(Theo Từ điển Thành phố Sài Gòn-Hồ Chí Minh, Thạch Phương-Lê Trung Hoa chủ biên, NXB Trẻ-2001).
Thứ Ba, 11 tháng 11, 2014
Những quyển sách cũ.
Mấy hôm trước nhân dịp cuối năm dọn dẹp sơn phết lại nhà cửa , tôi tình cờ tìm lại được mấy quyển sách cũ trong một thùng giấy nhỏ đầy bụi bặm để trên... gác bếp. Những quyển sách tôi đã mua và đã đi theo tôi suốt trong những năm tháng xa nhà trước năm 1975. Không ngờ tôi còn "dấu" được những quyển sách như thế này, đúng là "dấu" được, tuy những quyển sách này không liên quan gì đến chính trị hay "đồi trụy" gì hết, và tôi đã quên mất là tôi đã có những quyển sách như thế, tổng cộng là năm quyển sách, thời gian đã trôi qua, đã trên bốn mươi năm.
Hai quyển sách bên trên, một là quyển "Lịch sử tư tưởng Nhật Bản" của Thượng Tọa Thích Thiên Ân, Giáo sư-Tiến Sĩ - Đại học Văn Khoa Saigon và Vạn Hạnh, sách do Đông Phương xuất bản năm 1965. Quyển thứ nhì là "Văn Học Trung Quốc Hiện đại - 1898-1960 (Quyển hạ)" của học giả Nguyễn Hiến Lê, do Nhà xuất bản Nguyễn Hiến Lê ấn hành năm 1969. Trước năm 1975 học giả Nguyễn Hiến Lê có lập một nhà xuất bản lấy tên của ông, chỉ in riêng sách của ông chứ không nhận in sách của các tác giả khác. Đây là quyển sách duy nhất của ông tôi có do NXB Nguyễn Hiến Lê phát hành, mấy chục quyển sách khác của ông tôi có bây giờ đều là sách in sau năm 1975.
Hai quyển sách tiếp theo về âm nhạc, là quyển "Để thưởng thức Âm nhạc Cổ điển Tây phương" của Tiến Bách, Tủ sách Nghệ thuật Hiện đại xuất bản năm 1973, và quyển Beethoven của J. W. N. Sullivan, Hoài Khanh dịch, do nhà Ca Dao xuất bản năm 1972.
Quyển sách cuối cùng trong năm quyển tôi tìm lại được là quyển "Nhân chủng học và Lược khảo Thân tộc học" của Bửu Lịch do Lửa Thiêng ấn hành năm 1971.
Những quyển sách này tôi đều mua tại Saigon trong những lần về phép, và khi trở lại đơn vị tôi đã mang theo nó trong ba lô, tôi đã đọc khi trên đường công tác ở các thành phố cao nguyên hay duyên hải Trung phần, tôi đọc trong rừng nơi hầm trú ẩn hay nơi một làng Thượng, trong những quán cà phê nơi phố núi, hay trong một sân chùa vắng...
Đấy là những quyển sách "thất lạc" đã trên bốn mươi năm nay. Ngoài những quyển sách hồi đó sợ phải "dấu" rồi quên như thế, tôi còn những quyển sách khác mua từ thời tôi còn đi học, hoặc thời "long đong" trong lính. Đa số là sách học như Từ điển, Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh, Từ điển Tiếng Việt của Hội Khai Trí Tiến Đức (Saigon in lại năm 1967), Từ điển chữ Nôm của Vũ Văn Kính - Nguyễn Quang Xỹ (Bộ Quốc Gia Giáo Dục-Trung Tâm Học Liệu xuất bản năm 1971), Từ điển Pháp Việt của Thanh Nghị, từ điển Việt Pháp của Đào Đăng Vỹ, hay Anh Việt - Việt Anh của Lê Bá Kông... Những sách này vì là sách học nên vẫn để trên kệ sách, không phải... mang dấu.
Thời còn đi học trung học tôi đã học chữ Nho với GS. Đào Mộng Nam, ông có dạy ở Viện Đại học Huế trước năm 1975, và sau đó thì theo sách của ông tôi tự mày mò học. Tôi còn giữ được bộ sách "Chữ Nho Tự Học" của ông (gồm khoảng gần 1.900 từ), gồm ba quyển. Suốt thời gian trong lính tôi cũng đã mang theo bộ sách này, cùng với quyển "Nho Văn" của Nguyễn Văn Ba (Văn Hiến tái bản lần thứ ba-1970), tôi đã học hết cả ba quyển Chữ Nho Tự Học, lõm bõm đọc và viết được đôi câu chữ Hán, sau năm 1975 thì không có dịp đụng tới đến nay đã... quên gần hết. Cũng may là vẫn còn nhớ nguyên tắc viết chữ, nhờ đó mà tương đối dễ dàng trong việc tra chữ nơi từ điển Hán Việt.
Tìm lại được những quyển sách của một thời, mừng như gặp lại được bạn cũ...
Chủ Nhật, 9 tháng 11, 2014
Câu chuyện thời sự: 9 tháng 11.
Ảnh Internet.
Đã 25 năm trôi qua kể từ khi bức tường Berlin chia cắt hai miền Đông và Tây của thành phố Berlin nước Đức sụp đổ (9-11-1989 - 9-11-2014), dẫn tới một sự kiện lịch sử khác cũng quan trọng không kém, đã làm thay đổi thế giới là việc Liên bang Xô Viết tan rã vào hai năm sau đó (1991). Nhà báo Mỹ Thomas L. Friedman, người đã ba lần đoạt giải thưởng Pulitzer trong quyển "Thế giới phẳng"*, đã nói về sự kiện này theo cách nhìn của ông. Nhiều nhà phân tích thời sự, chính trị cho đó là những sự kiện về chính trị, làm cho thế giới gần nhau hơn. Tuy cũng nhìn nhận như thế, nhưng Friedman có một lý giải khác, đó là một trong những nhân tố hàng đầu làm "phẳng thế giới", theo ông là sự sụp đổ của một hệ thống kinh tế, chứ không phải là sự sụp đổ của một thể chế chính trị, và tác động chinh yếu làm cho hệ thống kinh tế này sụp đổ, chính là sự phát triển của những chiếc máy tính cá nhân, và hệ điều hành mang tính toàn cầu Windows. Tôi thử trích lại một số nội dung trong sách của ông liên quan đến vấn đề vẫn còn mang tính thời sự này:
Mười Nhân tố
Làm Phẳng Thế Giới.
Theo Kinh Thánh thì Chúa đã tạo ra thế giới trong sáu ngày và Ngài đã nghỉ vào ngày thứ bảy. Quá trình làm phẳng thế giới cần nhiều thời gian hơn. Thế giới đươc làm phẳng bởi sự hội tụ mười sự kiện chính trị, phát kiến và các công ty lớn. Chẳng ai trong chúng ta được nghỉ ngơi kể từ đó và có thể chẳng bao giờ được nghỉ ngơi...
NHÂN TỐ LÀM PHẲNG THỨ NHẤT
Ngày 9 tháng 11 năm 1989
Kỷ nguyên sáng tạo mới: khi các bức tường sụp đổ và phần mềm Windows lên ngôi
Sự sụp đổ Bức tường Berlin vào ngày 9 tháng 11 năm 1989 đã mở đường cho những con người sống trong chế độ Xô Viết. Nhưng trên thực tế, sự kiện này còn có ảnh hưởng khác hơn nhiều. Nó làm nghiêng cán cân quyền lực trên thế giới về phía những người ủng hộ chính quyền dân chủ, đồng thuận, hướng đến thị trường tự do. Nó đưa ra lời cảnh tỉnh cho những người ủng hộ sự cai trị độc tài và cổ súy cho nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Chiến tranh Lạnh là một cuộc chiến giữa hai hệ thống kinh tế - chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản - và với sự sụp đổ của bức tường Berlin, dường như chỉ còn lại một hệ thống... Nếu bạn không là một nền dân chủ hay một xã hội đang trong quá trình dân chủ hóa, nếu bạn tiếp tục trung thành với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung hoặc được điều tiết ở mức độ cao, người ta sẽ cho rằng bạn đứng nhầm phía của lịch sử...
Đó là lý do tại sao sự sụp đổ của bức tường Berlin có ảnh hưởng tới nhiều nơi khác chứ không chỉ riêng ở Berlin, và vì sao sự sụp đổ của nó là một sự kiện có thể làm phẳng thế giới như vậy...
Các nỗ lực bất thành của Mikhail Gorbachev trong việc cải cách một chế độ không thể cải cách nổi đã làm chủ nghĩa cộng sản ở nước này sụp đổ. Nhưng nếu tôi phải chỉ ra một yếu tố đầu tiên trong số những yếu tố quan trọng như nhau, tôi sẽ nói rằng đó là cuộc cách mạng thông tin bắt đầu vào đầu đến giữa thập niên 80... nhờ vào sự phổ biến của các máy fax, điện thoại, và cuối cùng là máy tính cá nhân.
Sau việc Steve Jobs và Steve Wozniak lần đầu tiên đưa ra chiếc máy tính gia đình Apple II vào năm 1977, chiếc máy tính cá nhân đầu tiên của hãng IBM được đưa ra thị trường vào năm 1981. Phiên bản đầu tiên của hệ điều hành Windows xuất hiện năm 1985 và phiên bản mang tính đột phá giúp máy tính cá nhân IBM dễ sử dụng hơn là bản Windows 3.0 được chuyển tới khách hàng vào ngày 22 tháng 5 năm 1990, chỉ sáu tháng sau khi bức tường sụp đổ...
Khi bức tường Berlin sụp đổ (và Trung Quốc, Ấn Độ bắt đầu mở cửa đối với nền kinh tế toàn cầu), không gì có thể ngăn cản việc thể hiện mọi thứ dưới hình thức số - văn bản, âm nhạc, hình ảnh, dữ liệu, video - và sau đó là sự trao đổi tất cả các thông tin dưới hình thức số. Sự giam hãm về chính trị đối với các cá nhân đã biến mất cùng với sự sụp đổ của bức tường Berlin...
Một số người nghĩ rằng Ronald Reagan đã làm bức tường sụp đổ bằng cách làm cho Liên Xô tan rã trong cuộc chạy đua vũ trang với Mỹ. Những người khác nghĩ rằng IBM, Steve Jobs và Bill Gates đã làm bức tường Berlin sụp đổ bằng việc tạo cho các cá nhân biết nắm bắt tương lai...
Và ông đã viết: "Vâng, thế giới trở thành nơi mà mọi người có thể sống tốt hơn sau ngày 9 tháng 11..."
.............................
* Thế giới phẳng - Tóm lược Lịch sử Thế giới Thế kỷ 21 (The World í Flat a brief history of the twenty-first century), Thomas L. Friedman, nhóm dịch và hiệu đính Nguyễn Quang A, Nguyễn Hồng Quang, Vũ Duy Thành, Lã Việt Hà, Lê Hồng Vân, Hà Thị Thanh Huyền, NXB Trẻ-2009.
Thứ Bảy, 8 tháng 11, 2014
Những cái tên.
Ở một entry trước khi nói về chuyện xuất bản sách, bạn Marg. và bạn Giaolang có bàn về cái tên, nhân có đại biểu quốc hội nói phải đặt tên "thuần Việt" trong khai sinh, bởi vì có nhiều người đặt tên con khá kỳ cục, chẳng hạn Đinh Nô Ki A, Điểu Sam Sung (chắc cha mẹ mê điện thoại Nokia, hay tivi Sam Sung), hoặc Thào Văn Hon Đa (mê xe gắn máy Honda), hay Sử Thị Hàn Quốc (mê diễn viên Hàn Quốc)... Chuyện nói năng, tuyên bố của quý đại biểu quốc hội thì các bạn nào hay theo dõi trên mạng gần đây chắc đã rõ, hay ho lắm, đến nỗi có những đại biểu phải lên tiếng đề nghị, muốn được bầu vào quốc hội cần phải có tiêu chuẩn kiểm tra... sức khỏe tâm thần?! Đấy là chuyện quốc dân đại sự, nó ở tầm "vĩ mô", lớn lắm, chẳng hiểu ra sao? Mình thảo dân, chỉ bàn chuyện "vi mô" thôi, nôm na là chuyện nhỏ, nói theo từ ngữ dân gian thời @ là "chuyện nhỏ như con thỏ".
Trở lại cái tên "thuần Việt" mà có đại biểu quốc hội đề nghị dùng để đặt trong khai sinh, bạn nói thế thì gay quá, bởi ở nhà bạn có mấy người mà ai cũng có tên Hán-Việt cả, tên nào khi đặt cha mẹ cũng chọn lựa kỹ lưỡng, ý nghĩa và đẹp như mơ, kiếm một cái tên "thuần Việt" coi được đâu phải là dễ. Rồi đây những cái tên mang "yếu tố Hán-Việt" như Dũng, Trí, Nhân, Thanh, Liêm, Loan, Phụng, Thảo, Dung, Hạnh... sẽ đi vào quá khứ và những cái tên nôm na "thuần Việt" như Tí, Tèo, Cu, Cò, Đực, Gái, Lon, Gáo... sẽ lên ngôi. Hihi! Bạn cũng nói thêm nhưng mà cái tên Hán-Viêt coi thế mà cũng rắc rối lắm chứ đâu phải chơi, hàng xóm nhà bạn xưa có ông kia làm thợ mộc, có mấy đứa con hai đứa con trai đặt tên là Trượng, Thốn, đứa con gái đặt tên là Lý, toàn là thước tấc, những đơn vị đo lường về khoảng cách cả, Trượng, Thốn cùng lứa chơi với bạn, Người anh tên Trượng thì không sao, nhưng cu cậu em tên Thốn hay bị bạn bè trêu chọc. Rồi bạn nói xưa đi học trong lớp có đứa tên là Nhân Từ, chắc cha mẹ muốn cho con thành người hiền lành, nhưng lũ bạn rắn mắt cứ gọi là... củ từ, lắm khi bạn tức quá cự lại sinh ẩu đả, hiền lành đâu chưa thấy, chỉ thấy dữ dằn.
Bạn nói rất đúng, tên Hán-Việt thường đẹp và có ý nghĩa hơn tên thuần Việt, nhưng từ Hán-Việt cũng hay có những chữ đồng âm nhưng khác nghĩa. Chẳng hạn muốn con thông minh, mặt mũi sáng sủa đặt là Minh (明), ai dè tiếng Hán-Việt đọc "minh" có nghĩa là "sáng", nhưng "minh" (冥) cũng có nghĩa là "tối tăm, u ám". Chữ "quan" (官) có nghĩa là "quan chức, quan lại", ngày xưa ai có con cái cũng mong muốn lớn lên sẽ làm quan nên hay đặt tên là Quan, nhưng "quan" (棺) lại có nghĩa là "áo quan, quan tài", chưa hết, "quan" (鰥) cũng có nghĩa là "người đàn ông góa vợ hoặc già mà chưa vợ", người xưa nói trong cuộc đời có bốn cái khổ là "quan, cô, độc, quả", "quan" (鰥) là người đàn ông góa vợ, hoặc già mà không có vợ, "cô" (孤) là trẻ nhỏ mồ côi, "độc" (獨) là già mà không có con cái, "quả" (寡) là đàn bà góa chồng, hoặc già mà không có chồng. Rồi tỉ như chữ "ưu" (優) nữa, "ưu" là đứng đầu, ưu việt, ưu tú, đi thi đậu hạng ưu, nhưng "ưu" (憂) cũng là ưu phiền, lo lắng... Cái "yếu tố Hán-Viêt" lắm khi nó "phản phé" và rắc rối thế...
Đấy những cái tên xem thế mà cứ rối như tơ vò, chẳng thế mà ngày xưa ông bà ta đặt tên cho con cháu kỹ lắm. Người có chút chữ nghĩa chọn ngày lành tháng tốt, giữ lòng thanh tịnh, đốt trầm ngồi trước hương án giở sách thánh hiền Tứ thư, Ngũ kinh ra mà chọn tên. Còn không phải nhờ cụ nào văn hay chữ tốt chọn hộ. Chọn tên cũng phải xem xét xem có trùng với ai trong họ hàng nội ngoại không? Người Tây phương yêu quý ai thường lấy tên đặt cho con cái, còn người Á đông lại cho việc đặt tên như thế là vô lễ. Tôi nghe nói sở dĩ ở miền Nam xưa kia người ta không gọi người con trưởng là Cả bởi mấy lý do, kỵ húy cách gọi Hoàng Tử Cảnh là Ông hoàng cả, con trưởng vua Gia Long. Xưa trong làng ở miền Nam gọi người đứng đầu làng là Hương Cả, cho nên dân trong làng không dùng chữ Cả để gọi người con trưởng, chẳng lẽ nhất nhất sự gì cũng réo "Bớ thằng cả", nghe không phải với ông Hương Cả trong làng. Còn có lần đi đám giỗ nghe một ông người Thiên Chúa giáo trong bàn giải thích khác nữa, cũng là kỵ húy nhưng là kỵ húy Đức cha cả, tức là Đức cha Bá Đa Lộc (Pierre Joseph Georges Pigneau de Behaine), người đã dẫn Hoàng Tử Cảnh sang Pháp cầu viện. Trước đây ở Saigon có mộ chôn ngài ở khu vực sân bay Tân Sơn Nhất, gọi là khu Lăng Cha Cả, sau mở đường phá mất lăng, thật uổng.
Tôi cũng có những bà cô bà con tên toàn loài chim, thoạt đầu các cụ đặt là Oanh, Yến, tên chim theo Hán-Việt rất đẹp, Nhưng rồi lại tiếp tục... mấy cô nữa nên sau các cụ đâm chán, cũng đặt tên chim nhưng là chim... thuần Việt, cô Sẻ, cô Sáo. Cô Sẻ lớn lên lấy chồng chỉ ở nhà nội trợ lo chuyện con cái, bếp núc chẳng làm ăn gì nên vẫn giữ tên Sẻ, Còn cô Sáo hồi đó đi làm bàn giấy cho hãng Tây, theo đợt sóng mới, chắc thấy tên mình gọi lên nghe... chim chóc quá, hoặc tên "Sáo" nghe khách sáo, sáo rỗng, cho nên cô xin ra tòa án đổi tên, cũng chẳng thay đổi gì nhiều, tòa chỉ bỏ dấu sắc, "Sáo" thành "Sao", dù sao theo cô thì tên Sao nghe gọi cũng hay hơn tên Sáo.
Cái tên người, "có yếu tố Hán-Việt, nước ngoài" hay "thuần Việt" lắm khi nó rắc rối vậy đó...
Chủ Nhật, 2 tháng 11, 2014
Viết ngắn cuối tuần.
Mấy hôm trước buổi tối xem trên truyền hình trong chương trình thi chọn người mẫu thời trang, có một nữ thí sinh đã làm cho những người xem khá sốc. Sau phần biểu diễn thí sinh này đã được Ban giám khảo chọn tiếp vào vòng trong, nghe xong chẳng nói chẳng rằng cô ta quay gót đi ngay vào hậu trường. Lập tức vị giám khảo (nam) người ngoại quốc gọi cô ấy quay lại, tuyên bố loại cô ấy, với lý do đại ý là một người mẫu cũng phải có văn hoá, ít nhất sau khi nghe được chọn vào tiếp thì cô ấy phải nói lời cám ơn, và chào Ban giám khảo trước khi quay trở vào.
Có lẽ đây chỉ là một trường hợp cá biệt, nhưng nó cũng nói lên một điều mà bấy lâu nay thường được hay nhắc đến, cả trên những phương tiện truyền thông, là nhiều người Việt bây giờ ít biết nói cám ơn, xin lỗi, không biết tôn trọng cái chung nơi công cộng, chẳng hạn như phóng uế, xả rác bừa bãi, ăn nói ồn ào, không biết xếp hàng, sẵn sàng chen ngang trước mặt người khác ở nơi tính tiền siêu thị, ở trạm đổ xăng hay bãi giữ xe, dừng xe ngoài đường bất chấp luật lệ, tệ hơn nữa là chỉ một va chạm nhỏ trên đường phố là lao vào đánh nhau chí tử... Cô em của tôi ở bên Úc, một lần về chơi nói, đến những nơi công cộng chẳng hạn sân bay, chỗ nào ồn ào, lộn xộn nhất y như rằng chỗ ấy toàn người Việt...
Thỉnh thoảng tôi cũng có xem những chương trình thi nhảy múa, hát hò trên truyền hình bây giờ, tôi thấy những đứa trẻ con thi hát dễ thương và lễ phép hơn một số những chương trình của người lớn, chúng luôn biết cúi đầu và nói "Con cám ơn cô, con cám ơn chú..." sau khi nhận được những lời nhận xét của Ban giám khảo. Xin lỗi và cám ơn, hay nở một nụ cười ngay cả với những người không quen tình cờ đi ngược chiều trên hè phố hoặc ngồi đối diện trong quán ăn, là một thói quen của người Âu Mỹ, những điều này coi vậy mà có những tác động rất lớn, nó làm cho chúng ta cảm thấy dễ chịu khi từ nhà bước ra tiếp xúc với xã hội, cuộc sống bớt căng thẳng và đáng sống hơn...
Trở lại chuyện cô gái đi thi làm người mẫu bên trên, có thể là do một thoáng sơ ý của cô (vì mừng rỡ khi được chọn đi tiếp nên quên cả cám ơn và chào chăng?) Và đấy sẽ là một kinh nghiệm sống của cô, như sau đó cô có biện bạch. Tôi cũng không trách gì cô gái còn trẻ ấy, nhưng cái cảm giác xấu hổ nó cứ ám ảnh tôi, khi mà một người ngoại quốc "chỉnh" người mình về lễ phép, ngay trên kênh truyền hình quốc gia của mình...
Đăng ký:
Bài đăng
(
Atom
)