Ảnh Internet.
Bây giờ đã sang tháng tám ta, còn ít ngày nữa là đến tiết Trung thu (tết Trung thu, rằm tháng tám). Ngày xưa Trung thu là một cái tết của trẻ con, trước ngày rằm tháng tám cả nửa tháng là thị trường đã nhộn nhịp các loại đèn, bánh dẻo, bánh nướng... để đến đúng Trung thu rằm tháng tám là người lớn bày cỗ cho trẻ con rước đèn, ngắm trăng, vui chơi, nghe kể những tích xưa...
Trung thu là một cái tết dành cho trẻ con có nguồn gốc từ Trung Hoa hay của người Việt, bắt nguồn từ nền văn minh nông nghiệp của Việt Nam đến nay cũng chưa xác định rõ. Trung thu là tết ngắm trăng, nói về trăng, sự tích về tết Trung thu thường nghe nhắc đến có chuyện Hằng Nga - Hậu Nghệ, Đường Minh Hoàng du nguyệt điện... đấy là sự tích của Trung Hoa, còn Việt Nam thì có chuyện cây đa chú Cuội, thỏ ngọc... và dĩ nhiên không thể không nhắc đến chị Hằng. Trong văn học chị Hằng được nhắc đến với rất nhiều tên gọi, tôi thử đi tìm những tên gọi ấy (sắp theo thứ tự a, b, c...).
- Ả Hằng: tên gọi khác của Hằng Nga, chị Hằng, vợ của Hậu Nghệ. Sách Hoài Nam Tử chép ngày xưa Hậu Nghệ xin được thuốc tiên của Tây Vương Mẫu. Hằng Nga lấy trộm trốn lên cung trăng. Vì thế tục truyền trên cung trăng có Hằng Nga. Đời sau văn nhân lấy điển đó để tả mặt trăng hay người con gái đẹp.
Bấy giờ e lệ chưa tường,
Lâu lâu lại lấp lánh gương Ả Hằng.
Phan Trần
- Bóng bạc, bóng Hằng, bóng Nga, bóng nguyệt, bóng thiềm, bóng thỏ, bóng tố: những tên gọi để chỉ bóng trăng, mặt trăng.
Có đêm thanh vắng bóng Hằng,
Thầy đang dở chén, cô băng vội nằm.
Nguyễn Khuyến
Một mình lặng ngắm bóng Nga,
Rộn đường gần với nỗi xa bời bời.
Nguyễn Du
Chênh chênh bóng nguyệt xế mành,
Tựa ngồi bên triện, một mình thiu thiu.
Kiều
Phất phơ tơ liễu buông rèm,
Nửa sân lưu lệ, bóng thiềm xế ngang.
Hoa Tiên
Khi bóng thỏ chênh vênh trước nóc,
Nghe vang lừng tiếng giục bên tai.
Cung Oán
Chập chờn bóng tố trêu ai,
Hoa đâu rụng, lá đâu rơi trước rèm.
Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Thiện- Bóng quế, cung quế, đan quế: theo Dậu dương tạp trở, trong mặt trăng có cây quế đỏ (đan quế) cao năm trăm trượng. Dưới gốc luôn có người đẵn, nhưng đẵn đến đâu cây lại liền đến đó. Người đẵn là Ngô Cương, vì có lỗi nên bị trời phạt phải đi đẵn quế đời đời. Do điển này nên bóng quế, cung quế, đan quế... được dùng để chỉ mặt trăng.
Nương song ngày tiếp mùi hương lạt,
Nối chén đêm âu bóng quế tan.
Nguyễn Bỉnh Khiêm- Cung Quảng: dịch Quảng hàn, cũng gọi là Cung trăng, cung mây, cung thiềm, Hàn cung... Nguyên về đời Đường vua Minh Hoàng nằm mơ thấy lên cung trăng, đến cửa cung thấy đề "Quảng hàn thanh hư chi phủ". Từ đấy thường dùng Quảng hàn để chỉ vầng trăng.
Thân sao lắm nỗi bất bằng,
Liều như cung Quảng ả Hằng nghĩ sao.
Kiều- Gương Hàn: là mặt gương trong cung Quảng hàn, cũng như gương Hằng, gương Nga, gương thiềm, dùng để chỉ mặt trăng.
Gấm Chức đong tơ khuây cửi mắc,
Gương Hằng ngắm bóng, ngại trâm cài.
Lê Thánh Tông
Lưu liên khi lại huỳnh song,
Gương Nga đã gác non đông nửa vừng.
Hoa tiên- Thiềm cung: cung con cóc. Theo Hậu Hán thư, Hằng Nga vợ của Hậu Nghệ lấy trộm thuốc tiên của Tây Vương Mẫu cho Hậu Nghệ, Hằng Nga ăn rồi trốn lên cung trăng biến thành con cóc. Do điển này Thiềm cung được dùng để chỉ mặt trăng hay nơi người đẹp ở.
Thiềm cung bóng đã tà tà,
Khuyên rằng mau trở lại nhà với con.
Trinh thử- Thỏ: cũng như bóng thỏ, bạch thỏ, thỏ ngọc, vầng thỏ... những tiếng để chỉ mặt trăng. Theo truyền thuyết trên mặt trăng có con thỏ ngọc ngồi giã thuốc.
Trải bao thỏ lặn ác tà,
Ấy mồ vô chủ ai mà viếng thăm.
Nguyễn DuTheo Wikipedia, trong Đạo giáo, Hằng Nga được gọi thần Mặt Trăng (Nguyệt thần), còn gọi là Thái Âm tinh quân, tôn xưng là Nguyệt Cung Hoàng Hoa Tố Diệu Nguyên Tinh Thánh Hậu Thái Âm Nguyên Quân, hoặc Nguyệt Cung Thái Âm Hoàng Quân Hiếu Đạo Minh Vương.
Tham khảo:
- Từ điển Văn liệu, Long Điền Nguyễn Văn Minh, NXB Hà Nội - 1999.
- Ngữ liệu văn học, Đặng Đức Siêu, NXB Giáo Dục - 1999.
- Điển cố văn học, Đinh Gia Khánh chủ biên, NXB Khoa Học Xã Hội - 2008.